Lý Dương Băng: Danh Gia Phục Cổ hay Kẻ Cách Xa Cổ Pháp?
Ngày đăng: 13/06/2025 | 00:06
Lời nói đầu
Lý Dương Băng [李阳冰 ] (khoảng 721/722–785/787?), tự Thiếu Ôn [少温 ], là nhà văn, nhà thư pháp nổi tiếng thời Đường [唐代 : 618–907, một trong những đỉnh cao của văn minh Trung Hoa, thời kỳ hưng thịnh về văn hóa, nghệ thuật]. Tình hình nghiên cứu về ông hiện nay như sau:

- Cao Hiểu Sa : "Nghiên cứu tiểu sử và nghệ thuật thư pháp Lý Dương Băng" (2010). Nghiên cứu về tiểu sử Lý Dương Băng như gia thế, con đường làm quan, giao du, học vấn và tình hình ông tinh thông Triện trứu [篆籀 : Chỉ chung Triện thư (thời Tần) và Trứu văn (Đại Triện thời Chu), thể chữ cổ hơn]; đồng thời nghiên cứu nguyên nhân hình thành nghệ thuật Triện thư của Lý Dương Băng, giới thiệu bối cảnh phát triển văn nghệ xã hội thời ông sống, ảnh hưởng của sự phát triển Triện thư đầu Đường tới phong cách Triện thư của ông, cùng tư tưởng học thư pháp của ông; sau đó luận thuật về phong cách Triện thư Lý Dương Băng; cuối cùng đề cập đến vị trí và ảnh hưởng của Triện thư Lý Dương Băng.
- Y Tuyết Phong : "Trung hưng và chung kết: Sự biến đổi của Tiểu Triện thế kỷ 8" (2007). Nghiên cứu về Tiểu Triện trong hai giai đoạn 701-754 và 755-800. Trong phần nghiên cứu Tiểu Triện giai đoạn 755-800, giới thiệu chi tiết căn cứ, được mất và ảnh hưởng của Tiểu Triện Lý Dương Băng.
- Lý Nghiễn : "Nghiên cứu và tham khảo phong cách Triện thư Lý Dương Băng" (2012). Nghiên cứu sâu về Lý Dương Băng từ góc độ mỹ học, đề cập đến động nhân văn hóa hình thành nên hình thái Tiểu Triện độc đáo của Lý Dương Băng: Ông sống vào thời Đường, có tư tưởng trọng pháp tắc [尚法 : Coi trọng quy phạm, phép tắc, đặc điểm tư tưởng quan trọng thời Đường, ảnh hưởng đến các loại hình nghệ thuật], điều này có ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành phong cách Tiểu Triện của ông, bối cảnh học thư pháp của ông cũng là một nhân tố quan trọng; cũng luận thuật về tư tưởng sáng tác Triện thư của Lý Dương Băng, cùng quan điểm mỹ học độc đáo của ông; đồng thời, phân tích về mặt mỹ học các tác phẩm tiêu biểu còn truyền lại hậu thế của Lý Dương Băng, tìm ra đặc điểm hình thái chữ viết trong Tiểu Triện của ông; tiếp theo phân tích chi tiết hình thái tạo hình của Tiểu Triện Lý Dương Băng, so sánh thư pháp Triện thư của ông trên phương diện mỹ học; cuối cùng so sánh Triện thư thời Tần, Triện thư thời Hán [汉代 : 206 TCN – 220], cũng như các loại Triện thư khác cùng thời với Dương Băng, phân tích sự khác biệt và tương đồng với Triện thư Lý Dương Băng, và rút ra kết luận.
- Hùng Phi : "Mấy vấn đề về tiểu sử Lý Dương Băng" (1991).
- Ân Tôn : "Bàn về Lý Dương Băng". Hai công trình này đã giới thiệu khá hệ thống và toàn diện về tiểu sử và tác phẩm thư pháp của Lý Dương Băng, trên cơ sở đó bổ sung những thiếu sót.
Ngoài ra còn có nhiều bài luận liên quan như:
- Đinh Kiệu : "Lạc bút sái Triện văn băng vân sử nhân kinh - Bàn về nghệ thuật thư pháp Tiểu Triện Lý Dương Băng" (2012). [Chú thích: "落笔洒篆文 崩云使人惊" là câu thơ của Lý Bạch ca ngợi thư pháp Lý Dương Băng, ý nói: "Hạ bút vẩy chữ Triện, mây tan khiến người kinh ngạc"].
- Vệ Yến Hồng : "Thử luận Từ Khải chỉ trích Lý Dương Băng" (2008). [Chú thích: Từ Khải 徐锴 (Xú Kǎi) (920–974): Nhà ngôn ngữ học, thư pháp gia thời Nam Đường (Ngũ Đại Thập Quốc), tác giả Thuyết Văn Giải Tự Hệ Truyện. Ông và anh trai Từ Huyền (Từ Thuyên) được gọi chung là "Nhị Từ" 二徐 , là những người chỉ trích mạnh mẽ việc Lý Dương Băng sửa chữa Thuyết Văn Giải Tự].
- Từ Văn Bình , Trâu Kiến Lợi : "Bia 'Tấn Vân Thành Hoàng Miếu' của Lý Dương Băng và nghệ thuật thư pháp của nó" (2004). [Chú thích: Tấn Vân Thành Hoàng Miếu Bi 缙云城隍庙碑 là một tác phẩm Triện thư tiêu biểu còn tồn tại của Lý Dương Băng].
- Cảnh Mẫn Hà : "Bàn sơ lược về nghệ thuật thư pháp Triện thư Lý Dương Băng" (2012).
- Đào Mẫn : "Hậu thân của Thương Hiệt - Lý Dương Băng" (2001). [Chú thích: Thương Hiệt 仓颉 : Nhân vật truyền thuyết trong văn hóa Trung Hoa, được tôn là người sáng tạo ra chữ Hán. "Hậu thân của Thương Hiệt" là danh hiệu người đời sau ca ngợi tài năng thư pháp siêu việt của Lý Dương Băng].
- Sử Văn Lỗi : "Xem sự khác biệt và tương đồng trong việc Nhị Từ dẫn dụng quan điểm Lý Dương Băng trong 'Thuyết Văn' từ góc độ lịch sử học thuật" (2007). *[Chú thích: "Nhị Từ" 二徐 : Chỉ Từ Huyền 徐铉 (Xú Xuàn) (916–991) và Từ Khải 徐锴 (920–974), hai anh em nhà nho học, ngữ văn học nổi tiếng thời Ngũ Đại - Tống sơ. Từ Huyền là người hiệu đính bản Thuyết Văn Giải Tự 说文解字 của Hứa Thận 许慎 (khoảng 58–147) được lưu truyền rộng rãi nhất]*.
- Lã Nhạc Quần : "Di tồn đề ký trên bia khắc của Lý Dương Băng ở Tấn Vân" (2011).
- Sử Văn Lỗi , Kim Thạc : "Thống kê phân tích việc Lý Dương Băng san định 'Thuyết Văn'" (2006). [Chú thích: Lý Dương Băng từng san định (sửa chữa, hiệu đính) bộ Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận, việc này gây nhiều tranh cãi trong lịch sử ngữ văn học].
- Triệu Trị Trung : "Lý Dương Băng ở Tấn Vân" (1998).
- Điền Canh Ngư : "Lý Dương Băng được dẫn trong 'Lục Thư Cố' - Luận tập về 'Quảng Thuyết Văn Giải Tự'" (?) [Chú thích: Lục Thư Cố 六书故 là tác phẩm ngữ văn học thời Tống của Đới Đồng 戴侗 ; Quảng Thuyết Văn Giải Tự 广说文解字 có lẽ chỉ những nội dung san định, giải thích mở rộng Thuyết Văn của Lý Dương Băng, nhưng tác phẩm này đã thất truyền].
Nội dung các bài viết này đại để là về tiểu sử, thành tựu nghệ thuật của Lý Dương Băng, cùng các nghiên cứu về ngữ văn học liên quan đến việc ông san định Thuyết Văn. Tổng hợp lại, các thành quả nghiên cứu về Lý Dương Băng cơ bản đều là tổng kết thành tựu nghệ thuật Triện thư của ông, thiếu đi các nghiên cứu hệ thống từ góc độ tiếp nhận học [接受学 )]. Bài viết này triển khai từ góc độ lịch sử tiếp nhận, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nghiên cứu sâu hơn về các thư pháp gia.
I. Tiểu sử Lý Dương Băng
Lý Dương Băng [李阳冰 ], tự Thiếu Ôn [少温 ] hoặc Trọng Ôn [仲温 , tổ tiên ở quận Triệu [赵郡 (nay là huyện Triệu, Hà Bắc)], sau di cư đến Vân Dương [云阳 (nay là Kính Dương, Thiểm Tây)], rồi trở thành người Kinh Triệu [京兆 (nay là Tây An, Thiểm Tây)]. Năm sinh năm mất của ông không rõ ràng, tư liệu còn lại rất ít. Tiên sinh Ân Tôn [殷荪 (Yīn Sūn)] trong Luận Lý Dương Băng cho rằng ông sinh khoảng năm Khai Nguyên thứ 9-10 đời Đường (tức năm 721-722), mất vào khoảng đầu niên hiệu Trinh Nguyên (tức năm 785-787), hưởng thọ hơn 60 tuổi.
Trong tác phẩm Thuật Thư Phú [述书赋 ] và phần chú giải của anh em họ Đậu [窦 ] thời Đường, Đậu Tích [窦臮 ] có viết:
"Thông gia thế nghiệp, Triệu quận Lý quân. Dịch Sơn tịnh vụ, Tuyên Phụ đồng quần. Động ư tự học, cổ kim thông văn. Gia truyền hiếu nghĩa, khí hoặc phong vân."
(Tạm dịch: Nhà thông thạo nghề [thư pháp], ngài họ Lý quận Triệu. Cùng sánh ngang [bia] Dịch Sơn, chung nhóm với Tuyên Phụ. Thấu hiểu tự học [chữ nghĩa], xưa nay thông văn chương. Nhà truyền hiếu nghĩa, khí chất như mây gió cuộn).
Đậu Mông [窦蒙 ] chú giải thêm:
"Lý Dương Băng, người quận Triệu. Cha là Ung Môn [雍门 ], làm Huyện lệnh Hồ Thành [湖城令]. Gia đình trú tại Vân Dương, nhận chức thừa tác úy [尉 ] ở Bạch Môn [白门 (cửa thành/cách gọi kinh đô)]. Băng có năm anh em, đều giỏi từ chương học thuật, tinh thông Tiểu Triện. Ban đầu học theo Dịch Sơn bi' [峄山碑 ] của Lý Tư, sau khi xem 'Mộ chí Ngô Quý Trát' [吴季札墓志 ], bèn biến hóa khai mở [phong cách], như rồng như hổ, cương lợi hào sảng [劲利豪爽 (mạnh mẽ sắc sảo, phóng khoáng dứt khoát)], tựa gió thổi mưa về. Hình thể chữ nghĩa đều nằm trong tâm khảm, người thức giả gọi là 'Thương Hiệt hậu thân' [仓颉后身 (hậu thân của Thương Hiệt - ông tổ sáng tạo chữ Hán)]."
Ghi chép về Lý Dương Băng trong Thuật Thư Phú có thể coi là sớm nhất và uy tín nhất, hậu thế ghi chép về tiểu sử ông cũng đại để như vậy. Vì thế, năm sinh năm mất chỉ có thể là suy đoán.
Lý Dương Băng xuất thân danh gia vọng tộc, gia đình nhiều người tài, có gia phong cực kỳ tốt đẹp, khuyên dạy khích lệ người trong họ lập chí lớn. Vì vậy, từ nhỏ ông đã chịu sự ảnh hưởng của văn hóa truyền thống gia tộc, tiếp nhận giáo dục khá tốt, bác lãm quần thư [博览群书 (đọc rộng khắp các sách)], phẩm hạnh nho nhã. Điều này đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp làm quan, cũng như phát triển văn học, thư pháp sau này.
Sống dưới chính sách tuyển chọn quan lại khắt khe thời Đường, nếu không bác học đa tài [满腹经纶 (đầy bụng kinh luân - ý chỉ học vấn uyên thâm)] thì việc nhập thế làm quan vô cùng khó khăn. Lý Dương Băng từ nhỏ được giáo dục tư tưởng Nho gia, bão độc thi thư [饱读诗书 (đọc thấu kinh sách)], có tố chất chính trị tốt. Ông từng giữ các chức vụ: Quốc Tử Giám thừa [国子监丞 (Phó quan trường Quốc Tử Giám)], Tập Hiền viện Học sĩ [集贤院学士 (Học sĩ viện Tập Hiền)], Tướng tác Thiếu giám [将作少监 (Phó quan quản lý xây dựng hoàng cung)], Thư ký Thiếu giám [秘书少监 (Phó quan quản lý thư tịch)], đương thời gọi là "Lý Giám" [李监 (Ông Giám họ Lý)].
Do Lý Dương Băng sống trong thời kỳ Loạn An-Sử [安史之乱 (755-763) - cuộc nổi dậy do An Lộc Sơn và Sử Tư Minh phát động, đánh dấu bước ngoặt từ thịnh sang suy của nhà Đường], người có chí thời đó không có cửa báo quốc, cùng hàng loạt yếu tố khác khiến cả đời ông không giữ chức vụ cao, nhưng lại là vị quan tốt trong lòng bách tính, cùng dân đồng cam cộng khổ [与民同甘苦共患难 ]. Cuộc sống dân chúng ngày càng no đủ, hiện lên cảnh tượng phồn vinh. Lý Thái Bạch [李白 (Lǐ Bái) (701-762), nhà thơ nổi tiếng bậc nhất thời Đường] trong "Đương Đồ Lý Tể Quân Họa Tán" [当涂李宰君画赞 (Bài tán bức họa Lý Tể quân ở Đương Đồ)] có viết:
"Thiên thùy nguyên tinh, nhạc giáng túy linh.
Ứng kỳ mệnh thế, đại hiền nãi sinh.
Thổ kỳ hiến sách, phu văn vương đình.
Đế dụng hưu chi, dương quang thái thanh.
Lạm thương bách lý, hàm lượng bát minh.
Tấn vân phi thanh, đương đồ chính thành.
Nhã tụng nhất biến, giang sơn tái vinh.
Cử ấp biện vũ, thức đồ đan thanh.
Mi tú hoa cái, mục lãng minh tinh.
Hạc kiểu lãng phong, lân đằng ngọc kinh.
Nhược yết nhật nguyệt, chiêu nhiên vận hành.
Cùng thần xiển hóa, vĩnh thế tác trình."
(Tạm dịch: Trời ban tinh hoa, núi sinh khí linh. Ứng thời ra đời, bậc đại hiền sinh. Bày mưu dâng sách, tiếng tăm vang triều đình. Vua dùng khen ngợi, rạng ngời cõi thái thanh. [Công đức] bắt nguồn trăm dặm, bao dung bể cả. Tiếng thơm bay như mây Tấn, chính sự Đương Đồ thành công. [Văn chương] Nhã Tụng một phen đổi mới, non sông lại rạng rỡ. Cả ấp vỗ tay nhảy múa, vẽ thành tranh tươi. Lông mày đẹp như hoa cái, mắt sáng tựa sao trời. Hạc bay uyển chuyển nơi cung tiên, kỳ lân phi thăng chốn ngọc kinh. Như mặt trời mặt trăng, rạng rỡ vận hành. Thấu hiểu thần cơ mở mang giáo hóa, muôn đời làm khuôn mẫu.)
Điều này đủ thấy thành tích chính trị xuất sắc của ông.
Nhìn chung cuộc đời Lý Dương Băng, ông có tiếp xúc với nhiều quan lại, nhân sĩ nổi tiếng đương thời như Trương Húc [张旭 ("Thảo Thánh" - bậc thánh chữ Thảo)], Tiêu Dĩnh Sĩ [萧颖士 (nhà văn)], Lý Bạch, Đậu Tích, Đậu Mông, thường xuyên đàm đạo, vừa là thầy vừa là bạn. Nền tảng văn tự học [文字学 (nghiên cứu nguồn gốc, cấu tạo chữ Hán)] vững chắc của Lý Dương Băng cùng sự nghiên cứu Triện trứu [篆籀 (Triện thư và Đại Triện/Trứu văn)] đã đặt nền móng vững chắc. Ông có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của thư pháp Triện thư và văn tự học, cả ở thời đại ông sống lẫn đối với hậu thế.
II. Sự khen ngợi của các thư pháp gia các đời sau Đường đối với Lý Dương Băng và nguyên nhân
Xem xét nhiều lời bình phẩm về thư pháp Lý Dương Băng từ các triều đại sau Đường, phần lớn đều là lời khen ngợi. Sự tiến hóa của thư thể [书体 (các loại hình/chữ viết thư pháp)] đến thời Ngụy Tấn [魏晋 (220-420)] đã cơ bản ổn định, ý nghĩa của các thư thể cũng đã được định hình theo tập quán. Địa vị chính thể của Khải thư [楷书 ] vững chắc không thể lay chuyển, khiến Triện thư và Lệ thư [隶书 ] dần rút khỏi sân khấu thực dụng, gần như bị mai một ở giữa.
Thế nhưng Lý Dương Băng hùng túc độc xuất [雄秀独出 (vượt trội hùng hồn và tinh túy)], với khí phách "Sau ông Lý Tư (tức Lý Tư) cho đến kẻ hèn mọn này" (Tư Ông chi hậu trực chí tiểu sinh), đã diễn giải mới mẻ sức hấp dẫn của Triện thư. Thành tựu của ông có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa thời Đường trở thành thời kỳ phát triển toàn diện của thư pháp. Thư Nguyên Dư [舒元舆 ] thời Đường trong "Ngọc Trợ Triện Chí" [玉箸篆志 ] viết: Thừa tướng nhà Tần Lý Tư kế thừa và đổi mới Trứu văn [籀文 (Đại Triện thời Chu)] của Thương Hiệt, phát triển thành Ngọc Trợ Triện [玉箸篆 (Triện thư nét bút tròn đều như chiếc đũa ngọc)], thể thái tôn cổ pháp, đương thời không ai sánh kịp, sau đó trở thành pháp độc nhất một nhà, trải qua Hán, Tam Quốc đến Tùy vẫn không ai vượt qua. Nhưng sau này xuất hiện Lý Dương Băng, ánh hào quang của Lý Tư dường như bị Dương Băng che lấp. Thư Nguyên Dư viết:
*"Ô hô! Ý trời cho rằng đạo của Triện thư không thể tuyệt diệt, nên truyền lại cho con trai họ Lý quận Triệu là Dương Băng. Dương Băng sinh vào thời Thiên tử Khai Nguyên [713-741] nhà Đường ta, không nghe khen ngợi bên ngoài, tự mình bước vào thất Triện, một mình có thể cách nghìn năm mà gặp gỡ Lý Tư nhà Tần, có thể nói là không phụ ý trời vậy. Người bàn luận thư pháp đương thời cũng đều thán phục, lại nói phong cách của ông cao vời, nét bút hùng mạnh, công lao đầy đủ, rạng rỡ gấp trăm lần Lý Tư nhà Tần."
Lã Tổng [吕总 ] trong "Tục Thư Bình" [续书评 ] cũng nhắc đến:
"Thư pháp Lý Dương Băng, tựa cổ thoa ỷ vật [古钗倚物 (như trâm cổ dựa vật, ví nét chữ cứng cáp, có lực)], sức mạnh ngàn cân. Sau Lý Tư, chỉ một mình ông mà thôi."
Lời khen ngợi Lý Dương Băng tràn đầy ngôn từ, đặt ông ở một vị trí cao để đánh giá. Trải qua Ngũ Đại Thập Quốc [五代十国 (907-960)] đến tận Tống, Lý Dương Băng vẫn được các thư pháp gia đánh giá cao, địa vị càng được củng cố. Ví như Từ Khải [徐锴 ] thời Nam Đường [南唐 ] nói:
"(Chữ) không có cùng cực, nếu không dùng nghĩa cổ để chế ngự, đâu đủ để xem. Vì thế sau Thúc Trọng [Hứa Thận], những gì Ngọc Thiên [玉篇 (tự điển thời Nam Bắc triều)], Thiết Vận [切韵 (vận thư thời Tùy)] ghi chép là tục lệ, tuy lâu ngày nhưng không thể đem dùng cho Triện văn. Người trước là Lý Dương Băng, thiên túng kỳ năng [天纵其能 (trời phú cho tài năng)], trung hưng tư học [中兴斯学 (chấn hưng học thuật này], làm rạng rỡ thêm cho họ Hứa [Hứa Thận], sáng chói anh tuấn. Nhưng cổ pháp trái với tục thường dễ bị mai một. Hiện nay sách của Hứa [Thận], Lý [Dương Băng] chỉ còn tồn tại trên đời, người học rất ít, chương cũ hiếm hoi. Cầm bút viết văn cần dựa vào việc tra cứu, mà thiên bàng áo mật [偏旁奥密 (bộ thủ bên cạnh sâu kín bí ẩn)], không thể hiểu theo ý muốn. Tìm kiếm một chữ thường phải xem hết cả quyển, tốn sức gấp đôi mà công hiệu chỉ được một nửa, mong sao tìm được điều thích hợp."
Ông cho rằng Lý Dương Băng đã bắc cầu cho người đời sau học tập phép Triện trên nền tảng của các bậc tiền bối như Lý Tư, địa vị của ông khó lay chuyển. Thời Hậu Tấn [后晋 (936-947)], Tư Không Đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự [司空同中书门下平章事 (Chức quan đứng đầu hàng tể tướng)] Lưu Hú [刘昫 ] trong "Cựu Đường Thư" [旧唐书 )] nói:
"(Lý) Hoa [李华 ] từng làm Lệnh Lỗ Sơn, bia mộ Nguyên Đức Tú [元徳秀 ] do Nhan Chân Khanh [颜真卿 ] viết chữ, Lý Dương Băng triện ngạch [篆额 (viết chữ Triện ở trán bia], người đời sau tranh nhau mô tả [模写 (mô phỏng, tập viết theo], gọi là 'Tứ Tuyệt Bi' [四绝碑 (Tấm bia bốn tuyệt phẩm)], có tập văn 10 quyển lưu hành đương thời."
Có thể thấy đánh giá về Lý Dương Băng thời đó rất cao, không chỉ tranh nhau mô tả mà còn được gọi là "tuyệt" [绝 (tuyệt phẩm, tuyệt mỹ)]. Đến thời Tống, Chu Trường Văn [朱长文 ] trong "Tục Thư Đoạn" [续书断 ] xếp Nhan Lỗ Công (Nhan Chân Khanh), Trương Trường Sử (Trương Húc), Lý Dương Băng vào "Thần phẩm tam nhân" [神品三人 (Ba người bậc Thần phẩm)] (22); Hùng Bằng Lai [熊朋来 ] trong "Kinh Thuyết" [经说 ] nói, Lý Dương Băng trong sách sử nhà Đường kỳ thực không có truyện, tông tộc dường như không có danh sĩ, chức quan cao nhất là ấp tể [邑宰 (quan huyện], điều này cũng chỉ thấy trong tập thơ Lý Bạch. Xem chữ Triện ở nơi ở của Nguyễn Dung [阮蓉 ], trên viết: "Lệnh Tấn Vân Lý Diêu [李䔄 ], há phải Dương Băng lấy tự mà nổi tiếng hay tên Diêu, từng có thơ mà Dương Băng chép chăng? Chữ Triện của Băng vào thần phẩm [神品 (bậc thần thánh, cao nhất trong phẩm bậc nghệ thuật truyền thống Trung Quốc], giữa những tấm bia vỡ vụn, ý bút phiên phiên [翩翩 (uyển chuyển, thanh thoát)], nghìn năm sau có người thật khó sánh kịp. Nhưng chính vì sự thần tuấn [神俊 (thần thái tuấn lệ, siêu phàm)] của nó, như văn của Trang Chu [庄子 ], nét bút của Đại Lệnh [大令 (Vương Hiến Chi (王献之) - con Vương Hy Chi (王羲之)], không thể lấy phép tắc để đòi hỏi. Bia Thành Hoàng Kỳ Vũ [城隍祈雨碑 ], chữ 'nhật' (日) như núi non, trên chữ 'sơn' (山) viết thành 'lý' (李). Bia Tam Phần Lý Thị [李氏三坟碑 ], chữ 'cảm' (敢) dưới viết thành 'thân' (身). Vong Quy Đường Thứ Tử Tuyền [忘归堂庶子泉 ], chữ 'thạch' (石) dưới viết thành 'khẩu' (口). Bia Tu Miếu [修庙碑 ]..."
Chữ Triện của Dương Băng vào thần phẩm, "nghìn năm sau có người thật khó sánh kịp" (hậu thiên niên hữu nhân thành vị dị cập), những đánh giá này cũng nổi bật ca ngợi thành tựu nghệ thuật Triện thư của Lý Dương Băng, sau này hầu như không ai sánh kịp, địa vị của ông thời đó có thể thấy được.
Thời Nguyên, Trịnh Bình [郑杓 ] soạn "Diễn Cực" [衍极 ], trong đó nhắc đến:
"Lý Dương Băng sinh vào trung Đường, một mình đi theo lối cũ [của Lý Tư], chuyên tâm đổi mới sáng tác, vượt hơn cả Lý Tư nhà Tần
Có thể thấy thời Tống Nguyên rất suy tôn Lý Dương Băng.
Phong Phường [丰坊 ] thời Minh trong "Đồng Học Thư Trình" [童学书程 ] nhắc đến "Lãng Gia Sơn Tân Tạc Tuyền Đề" [琅琊山新凿泉题 ], cho rằng "Thiếu Ôn viết Triện vốn không cổ, chỉ có bia này tú dật hữu thần [秀逸有神 (thanh tú phóng khoáng mà có thần thái)], có thể khơi gợi cho người mới học" , hé lộ sự công nhận của tác giả ở mức độ nào đó đối với Triện thư Lý Dương Băng; "...trải qua các đời, cùng Sùng Nhân Ngu Tập [虞集 ], Phong Thành Yết Hễ Tư [揭徯斯 ], Nghĩa Ô Hoàng Tấn [黄溍 ] nổi danh ngang nhau thiên hạ, người đời coi trọng, gọi là 'Tứ tiên sinh' [四先生 ]. Giỏi phép Khải, tinh thông Triện Trứu, chỗ hay không nhường Lý Dương Băng, lại giỏi giám định cổ khí, thư họa mà phân biệt thật giả." Tống Liêm [宋濂 ] đã gián tiếp khen ngợi Triện thư Lý Dương Băng, đem Triện thư so sánh với ông, có thể thấy địa vị của Dương Băng thời đó trong lĩnh vực Triện thư rất cao.
Thời Thanh có nhiều thư pháp gia giỏi Triện thư, phần lớn kế thừa phép của Lý Dương Băng, trên cơ sở đó hơi thêm bớt, ảnh hưởng có thể thấy rõ. Hồ Nguyên Thường [胡元常 ] có nói:
"Nếu chỉ theo đuôi dòng đời (học theo người sau), ít có chỗ ngộ. Nhưng cũng không thể không nghiệp vụ cao cổ [空务高古 (mải mê theo đuổi phong cách cổ xưa một cách không thiết thực)]: Triện thư lấy Sử Trứu [史籀 (tức Trứu văn/Đại Triện)] làm thượng thừa, chỉ có Dương Băng là đáng học..."
Trong "Thư Pháp Chân Thuyên" [书法真诠 ] cũng có ghi chép, Trương Chi Bình [张之屏 ] nhắc đến:
"Triện thư từ Tần, Hán trở lại, trừ Lý Thiếu Ôn đời Đường, mấy trăm năm gần như đứt đoạn."
Tổng hợp lại có thể thấy, Lý Dương Băng có thể được công nhận cao độ đương thời và hậu thế chủ yếu là do vai trò kế thừa cực kỳ quan trọng của ông trong quá trình phát triển Triện thư. Sự hùng túc độc xuất này thường được sử gia chiếu cố hơn là vẻ đẹp phong tư xước ước [风姿绰约 (dáng vẻ yêu kiều thướt tha)]. Thông qua việc sắp xếp các đánh giá khen ngợi Lý Dương Băng ở trên, phân tích nguyên nhân hình thành hiện tượng này sau thời Đường, đại để có thể quy nạp thành mấy điểm sau:
- Vai trò kế thừa lịch sử: Trước Lý Dương Băng, truy ngược đến Lý Tư nhà Tần, thành tựu Triện thư cao, nhưng sau đó cùng với sự sinh hoạt hóa [生活化 ] của thư pháp, Triện thư rườm rà không thực dụng, bị Khải, Hành, Thảo thư thay thế. Mãi đến thời Đường, Triện thư trải qua thăng trầm lại vào tầm mắt mọi người, mà Lý Dương Băng cũng đang ở vào thời Đường hưng thịnh về thư pháp. Việc phục hưng Triện thư khiến ông kế thừa Lý Tư, tự nhiên nhận được sự khen ngợi của các triều đại. Thời Đường phục hưng Triện thư khỏi phải nói, Triện thư đứng đầu là Lý Dương Băng. Các thư pháp gia Tống, Nguyên, Minh, Thanh thông qua Dương Băng mà học được tinh túy của Triện thư. Lý Dương Băng từ đó trở thành cây cầu, sợi dây liên kết việc học tập Triện thư trước và sau Đường, nên được tán thưởng.
- Giá trị mẫu mực trong thời đại trọng pháp độ: Dưới thời Đường cực kỳ coi trọng pháp độ [法度 (quy phạm, phép tắc)] và quy phạm, việc học thư pháp tự nhiên cũng có lối mòn và hệ thống nhất định, cung cấp mẫu mực tương ứng cho người học. Lý Dương Băng mở ra chương mới khác cho Triện thư trong lịch sử thư pháp, trở thành mẫu mực học tập cho thời Đường, thậm chí cả đời sau, khơi gợi cho người học sau, ý nghĩa sâu xa. So với Lý Tư, Lý Dương Băng gần gũi hơn với người đời sau, dễ đóng vai trò cầu nối hơn. Làm mẫu mực, nên được hậu thế suy tôn.
- Tài nghệ bản thân xuất chúng: Bản thân Lý Dương Băng kỹ nghệ thư pháp cao siêu, có nền tảng văn tự học vững chắc, cộng thêm nền giáo dục từ nhỏ và xuất thân gia thế, khiến Triện thư của ông nhận được đánh giá tốt. Việc thường được mời triện ngạch đương thời đủ thấy thành tựu xuất chúng và ảnh hưởng của ông trong lĩnh vực này.
III. Sự chỉ trích của các thư pháp gia các đời sau Đường đối với Lý Dương Băng và nguyên nhân
Tuy nhiên, bên cạnh rất nhiều bình luận ca ngợi, cũng có một số tiếng nói phê bình đáng chú ý. Thời Đường hầu như không thấy, nhưng bắt đầu từ thời Tống đã lóe lên một số lời chỉ trích Lý Dương Băng. Từ Thuyên [徐铉 ] (916-991) thời Tống từng nhắc đến:
*"Giữa niên hiệu Đại Lịch [766-779] nhà Đường, chữ Triện Lý Dương Băng đặc biệt tuyệt diệu, một mình đứng đầu xưa nay. Tự nói 'Sau ông Lý Tư cho đến kẻ hèn mọn này', lời này không phải là khoe khoang sao?"* (Tạm dịch ý)
Câu này phủ nhận trực tiếp lời tự đánh giá "Sau ông Lý Tư (Tư Ông) cho đến kẻ hèn mọn này" (Tư Ông chi hậu trực chí tiểu sinh) của Lý Dương Băng.
"Tống Sử" [宋史 ] do Thoát Thoát [托克托 ] , Trung thư Hữu thừa tướng Tổng tài [中书右丞相总裁 ] triều Nguyên cùng người khác biên soạn, cũng từng ghi chép:
"Giữa niên hiệu Đại Lịch nhà Đường, chữ Triện Lý Dương Băng đặc biệt tuyệt diệu, một mình đứng đầu xưa nay. Từ đó [ông ta] san định [刊定 ] Thuyết Văn [说文 ], sửa chữa bút pháp [笔法 ]. Người học noi theo, ngưỡng mộ, [khiến] Triện Trứu trung hưng [中兴 ]. Nhưng [ông ta] lại bài xích Hứa Thận [许氏 ] khá nhiều, tự đưa ra những lời nói ỷ thuyết [臆说 (theo ý riêng)]. Lấy cái sư tâm độc kiến [师心独见 (kiến giải riêng xuất phát từ lòng mình)] để phá vỡ điều tổ thuật [祖述 (kế thừa, tôn sùng)] của tiên nho, lẽ nào là ý của thánh nhân? Người học chữ ngày nay cũng nhiều người [theo] nghĩa mới của Dương Băng, đó chính là quý nhĩ nhi tiện mục [贵耳贱目 (coi trọng điều nghe được mà coi thường điều mắt thấy)] vậy."
So với thời Đường, Tống, Nguyên, tiếng nói chỉ trích Lý Dương Băng đến cuối Minh đầu Thanh càng thêm mãnh liệt, và tập trung hơn. Ví dụ, Hà Lương Tuấn [何良俊 ] (1506-1573) thời Minh trong "Tứ Hữu Trai Thư Luận" [四友斋书论 ] viết:
"Thời Đường xưng tụng Lý Dương Băng, Dương Băng lúc viết dùng liễu diệp [柳叶 (nét như lá liễu - chỉ lối viết Triện thư nét mảnh, đầu nhọn)], rất thiếu cổ ý [古意 (ý vị cổ xưa)]. Thỉnh thoảng cũng viết Tiểu Triện, nhưng không thấy có ý cương nhuận [劲润 (mạnh mẽ mà nhuần nhuyễn)], cách xa Lý Tư lắm."
Triệu Quang [赵宧光 ] (1559-1625) thời Minh trong "Hàn Sơn Chử Đàm" [寒山帚谈 ] cũng từng nhắc:
"Các bia của Lý Dương Băng, không dưới vài chục loại, nét bút quá mềm, phong cách thấp nhất, khá là không có gì đáng lấy..."
Tiền Dũng [钱泳 ] (1759-1844) thời Thanh trong "Thư Học" [书学 ] nói:
"Xem các bản khắc Dịch Sơn [峄山 ], Cối Kê [会稽 ], Kiệt Thạch [碣石 ] do Từ Đỉnh Thần [徐鼎臣 (tức Từ Thuyên)] mô phỏng, vẫn nắm được tam muội [三昧 (tinh túy)] của Tể tướng nhà Tần [Lý Tư]. Còn Lý Thiếu Ôn [Lý Dương Băng] nhà Đường, Mộng Anh [梦英 ] (thời Tống), Trương Hữu [张有 ] (thời Tống), Chu Bá Kỳ [周伯琦 ] (thời Nguyên), Triệu Quang thời Minh, càng viết càng xa rời [tinh thần nguyên bản]."
Tổng hợp những điều trên, phân tích các lời lẽ chỉ trích Lý Dương Băng, có thể thấy thời Đường hầu như không có sự chỉ trích nào đối với Lý Dương Băng, từ thời Tống bắt đầu dần tăng lên, đến đời Minh Thanh thì nhiều nhất. Nguyên nhân đại để có thể quy nạp thành mấy điểm sau:
- Tư tưởng tôn sùng tiền bối và phản đối tự khen: Trong một số bình luận có thể thấy, người bình luận hết sức ủng hộ địa vị của các bậc tiền bối như Lý Tư, so sánh Lý Dương Băng với người đời trước thì kém xa. Lời tự đánh giá "Sau ông Lý Tư cho đến kẻ hèn mọn này" đặc biệt bị chỉ trích. Những nhà phê bình này do sở thích cá nhân và hoàn cảnh sống v.v... có khuynh hướng thiên về các bậc tiền bối như Lý Tư, nên giữ thái độ phê phán đối với Lý Dương Băng. Hơn nữa, cách nói gần như tự khen khoác này, trong xã hội cổ đại chịu sự thống trị của tư tưởng Nho gia truyền thống, dưới làn gió đề xướng "quân tử tàng khí" [君子藏器 (người quân tử giấu tài năng, không khoe khoang)], thì sự tự khen khoác này rất dễ bị chỉ trích.
- Sự đối lập về phong cách nghệ thuật và bối cảnh thời đại: Những bình luận kiểu này nhiều vào đời Minh Thanh, điều này có liên quan nhất định đến toàn bộ bối cảnh thư pháp thời Minh Thanh. Triện thư từ sau sự phục hưng của Lý Dương Băng cho đến Minh Thanh, không ngừng biến đổi phát triển. Thời kỳ Minh Thanh đã là lúc thư pháp đi vào giai đoạn chín muồi, các hệ thống cơ bản hoàn chỉnh, lại có đặc điểm và quy phạm riêng. Lúc này, các thư pháp gia trên cơ sở kế thừa truyền thống, càng chú trọng sáng tạo, đồng thời dung nhập ý thú [意趣 (thú vị, tinh thần)] viết chữ rất mạnh, đột phá cách dụng bút đơn nhất của đời trước, khiến tác phẩm Triện thư tú mỹ đoan trang [秀美端庄 (xinh đẹp trang nhã)] nhưng không mất đi sự viên hoạt [圆滑 (tròn trịa, nhuần nhuyễn)], kết cấu phần lớn thượng khẩn hạ lỏng [上紧下松 (trên chặt dưới lỏng - đặc trưng kết cấu chữ Triện)], nhịp điệu dụng bút cực mạnh. Hơn nữa, trong nét bút thương kính hữu lực [苍劲有力 (cứng cáp mạnh mẽ)], khí tức viên nhuệ linh động [圆润灵动 (nhuần nhuyễn linh hoạt)] được biểu hiện một cách hản sướng lâm ly [酣畅淋漓 (thoải mái, trọn vẹn)], hình thành một phong cách Triện thư mới mẻ độc đáo, mang tính sáng tạo. Điều này có thể đối lập với hệ thống Triện thư thời Lý Dương Băng, từ đó nảy sinh mâu thuẫn giữa hai phong cách cũ và mới khác biệt. Phong cách Triện thư mới tuy được hình thành trên cơ sở các thư pháp gia kế thừa Triện thư đời trước, nhưng sau khi thêm vào ý tưởng riêng của họ để tạo thành phong cách thư pháp mới, sẽ ủng hộ đặc điểm phong cách Triện thư đương triều. Vì vậy, nhiều lời chỉ trích Lý Dương Băng thời Minh Thanh đã xuất hiện.
- Yếu tố cá nhân của nhà phê bình: Ngoài ra, đáng chú ý là trong những bình luận này, có một số có thể xuất phát từ yếu tố cá nhân của nhà phê bình. Ví dụ như Triệu Quang thời Thanh, việc ông chỉ trích Lý Dương Băng kỳ thực không có gì lạ, bởi trong các bình phẩm của ông, phần lớn là những lời phê bình sắc bén táo bạo. Thêm vào đó, bản thân ông giỏi Triện thư, có kiến giải độc đáo riêng, có lẽ đây là những nhân tố quan trọng khiến ông chỉ trích Lý Dương Băng.
IV. Tiểu kết
Sau thời Tần với Lý Tư, Triện thư dần suy thoái. Mãi đến thời Đường với Lý Dương Băng mới được phục hưng. Các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều trên cơ sở đó mà kế thừa và phát triển. Việc ý nghĩa của Lý Dương Băng được nổi bật lên là điều tự nhiên.
Tuy nhiên, từ góc độ tiếp nhận học [接受学 ], thị giác kỳ vọng mỹ cảm [审美期待视野 (góc nhìn/thị lực kỳ vọng về cái đẹp của mỗi thời đại)] của mỗi thời đại đều khác biệt, đều được quyết định bởi bối cảnh văn hóa và chính trị đương thời. Sự xuất hiện của những đánh giá tiêu cực vào cuối thời Minh đầu thời Thanh có mối quan hệ trực tiếp với bối cảnh văn nghệ lúc bấy giờ.
Cuối thời Minh, xã hội biến động lớn, kinh tế hàng hóa phát triển, chủ nghĩa tư bản [资本主义 ] bắt đầu manh nha, tầng lớp thị dân [市民阶层 ] không ngừng lớn mạnh, mức sống của người dân nâng cao hơn nữa, theo đuổi nhiều hơn tiêu dùng tinh thần [精神消费 Trong khi đó, các hoạt động chính trị tương ứng lại tương đối tăm tối và tham nhũng. Nhiều chủ thể sáng tác như văn nhân thông qua nghệ thuật để công kích và phản kháng, thể hiện làn sóng tư tưởng giải phóng cá tính [个性解放思潮 (gèxìng jiěfàng sīcháo)] rất mạnh mẽ. Trong đó, lấy Đổng Kỳ Xương [董其昌 (Dǒng Qíchāng)] (1555-1636) làm đại biểu, giương cao ngọn cờ phục cổ [复古 (fùgǔ)], suy tôn tư tưởng phục cổ, chủ trương lâm cổ [临古 (língǔ) (tập viết theo cổ nhân)], mô cổ [摹古 (mógǔ) (mô phỏng cổ nhân)], trên cơ sở sùng cổ [崇古 (chónggǔ)] phát huy đầy đủ cá tính, hình thành phong cách thư pháp lãng mạn cuối Minh [晚明浪漫主义书风 (wǎnmíng làngmàn zhǔyì shūfēng)].
Đến đầu thời Thanh, chính quyền thống trị do tộc Mãn Châu [满族 (Mǎnzú)] nắm giữ. Tuy nhiên, đại bộ phận sĩ đại phu [士大夫 (shìdàfū)] thời Minh, bất kể về mặt chính trị hay văn hóa, đều đại diện cho hình tượng sĩ đại phu Hán tộc đời trước, đem hình thái văn hóa của triều trước (Minh) truyền sang triều Thanh, trở thành người kế thừa và truyền bá truyền thống văn hóa cũ. Đồng thời, văn nhân sĩ đại phu dần hợp tác với chính quyền mới (nhà Thanh), cấu thành chủ thể sáng tác thư pháp thời Minh-Thanh, khiến cho nhà Thanh trong một thời gian khá dài sau khi thành lập vẫn tiếp tục kéo dài phong cách thư pháp thời Minh. Thêm vào đó, sự yêu thích và suy tôn của hoàng đế nhà Thanh, phong cách thư pháp cuối Minh tiêu biểu bởi Đổng Kỳ Xương được kế thừa lại và được mọi người ưa chuộng.
Có thể thấy, tư tưởng phục cổ [复古思想 ] cuối Minh đầu Thanh là một nguyên nhân quan trọng cấu thành nên sự chỉ trích Lý Dương Băng thời kỳ đó. Trọng tâm của những bình luận này cơ bản đều xoay quanh việc Triện thư Lý Dương Băng "cách xa cổ pháp" [去古远矣 ]. Để phù hợp với tư tưởng đương thời, tự nhiên họ đưa ra phê bình về vấn đề Triện thư Lý Dương Băng cách xa cổ pháp.
Ngoài ra, cơ duyên cá nhân [个人际遇 ] của những nhà bình luận này, thậm chí cả bối cảnh cụ thể của từng lời bình, đều là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến loại bình luận này. Ví dụ như Hà Lương Tuấn, Triệu Quang v.v... hoạn lộ [仕途 ] không được thuận lợi, có học vấn phong phú nhưng báo quốc vô môn [报国无门 (không có cửa báo đáp đất nước)]. Dưới làn sóng tư tưởng đề cao cá tính cuối Minh, việc họ đưa ra tư tưởng khác biệt với người trước cũng là hợp tình hợp lý, việc đặt câu hỏi về các kinh điển [经典 ] vốn luôn được suy tôn cũng thuộc chuyện bình thường.
Hơn nữa, vùng miền [地域 ] sinh sống của những nhà phê bình này cũng sẽ tạo ảnh hưởng. Các nhà phê bình nêu trên hầu như đều sống ở khu vực Giang Tô [江苏 ]. Thời Minh Thanh, kinh tế phương Nam [南方 ] tương đối phát triển, xa cách kinh thành [京城 ], môi trường chính trị tương đối nới lỏng, khiến lời nói của các nhà phê bình được tự do [自由 ] hơn, dám đưa ra phê bình.
Triện thư của Lý Dương Băng ảnh hưởng sâu rộng. Trong thời kỳ hưng thịnh của ông đã đành, nó còn đặt nền móng cho đời sau, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Triện thư, xứng đáng với lời khen ngợi dành cho ông xưa nay. Mặc dù cuối Minh đầu Thanh xuất hiện tiếng nói phê bình, nhưng vẫn không làm suy giảm ảnh hưởng của ông đối với hậu thế. Theo một nghĩa nào đó, đây cũng là một sự làm phong phú thêm [丰富 ] ý nghĩa của Lý Dương Băng.
Giải thích :
- Thuật Thư Phú (述书赋): Tác phẩm phê bình thư pháp quan trọng thời Đường, do Đậu Tích (窦臮) soạn, anh trai Đậu Mông (窦蒙) chú giải. Ghi chép và bình luận về các thư pháp gia từ thời Hán đến đầu Đường.
- Thừa tác úy (承白门作尉): "Thừa" (承) nghĩa là nhận lấy/đảm nhiệm. "Bạch Môn" (白门) vốn chỉ cửa thành/cung điện màu trắng, thường dùng để chỉ kinh đô (ở đây có thể là Trường An). "Úy" (尉) là chức quan cấp huyện, chịu trách nhiệm an ninh, tư pháp. Cụm này chỉ việc Lý Dương Băng nhận chức úy ở kinh đô.
- Dịch Sơn Bi (峄山碑): Bia khắc chữ Tiểu Triện nổi tiếng của Lý Tư (李斯) trên núi Dịch (nay thuộc Sơn Đông), là khuôn mẫu kinh điển của Tiểu Triện thời Tần.
- Mộ Chí Ngô Quý Trát (吴季札墓志): Bia mộ ghi lại tiểu sử Ngô Quý Trát (吴季札), một nhân vật hiền triết nổi tiếng thời Xuân Thu nước Ngô. Phong cách chữ Triện trên bia này được cho là đã ảnh hưởng lớn đến sự biến hóa trong thư pháp Lý Dương Băng.
- Cương Lợi Hào Sảng (劲利豪爽): Thuật ngữ mô tả đặc điểm phong cách thư pháp Lý Dương Băng: nét bút mạnh mẽ (劲 - cương), sắc sảo tinh tế (利 - lợi), phóng khoáng tự nhiên (豪 - hào), dứt khoát rõ ràng (爽 - sảng).
- Thương Hiệt Hậu Thân (仓颉后身): Thương Hiệt (仓颉) là nhân vật truyền thuyết, được coi là người sáng tạo ra chữ Hán. "Hậu thân" (后身) nghĩa là kiếp sau/người tái sinh. Cách gọi này cực kỳ đề cao tài năng thư pháp Triện thư của Lý Dương Băng, coi ông như Thương Hiệt tái thế.
- Danh Gia Vọng Tộc (名门望族): Gia đình danh giá, có thế lực và tiếng tăm lâu đời.
- Loạn An-Sử (安史之乱): Cuộc nổi loạn lớn nhất dưới thời nhà Đường (755-763) do tướng An Lộc Sơn (安禄山) và Sử Tư Minh (史思明) cầm đầu. Cuộc loạn này tàn phá nghiêm trọng đất nước, khiến nhà Đường từ đỉnh cao suy yếu dần, tạo ra bối cảnh xã hội biến động trong phần lớn cuộc đời Lý Dương Băng.
- Lý Giám (李监): Cách gọi tôn kính dựa trên chức vụ cao nhất ông từng đảm nhiệm là Thư ký Thiếu giám (秘书少监) - Phó Giám đốc Thư viện Hoàng gia, phụ trách thư tịch, văn thư triều đình.
- Nhã Tụng (雅颂): Chỉ hai phần "Nhã" và "Tụng" trong Kinh Thi (诗经), tượng trưng cho dòng thơ ca tao nhã, ca ngợi công đức. Ở đây ý nói phong khí văn hóa ở Đương Đồ dưới sự cai trị của Lý Dương Băng trở nên thanh nhã, tốt đẹp như thời thịnh trị.
- Hạc/Lân (鹤/麟): Hạc tượng trưng cho sự thanh cao, trường thọ. Kỳ Lân (麒麟) là linh thú tượng trưng cho điềm lành, thái bình. Trong bài tán, Lý Bạch dùng hình ảnh hạc bay, lân nhảy để ví von phong thái siêu phàm và đức độ cao quý của Lý Dương Băng.
- Ngọc Kinh (玉京): Chỉ nơi ở của Ngọc Đế (Ngọc Hoàng) trên thiên đình, tức cõi tiên.
- Thư thể (书体): Các thể loại chữ viết/thư pháp chính: Triện thư (篆书), Lệ thư (隶书), Khải thư (楷书), Hành thư (行书), Thảo thư (草书).
- Ngọc Trợ Triện (玉箸篆): Một phong cách viết Tiểu Triện đặc trưng bởi các nét đều, tròn, đầy đặn như chiếc đũa ngọc, được cho là do Lý Tư phát triển. Lý Dương Băng cũng nổi tiếng với phong cách này.
- Thần phẩm (神品): Bậc cao nhất trong hệ thống phẩm bậc đánh giá nghệ thuật truyền thống Trung Quốc ("Thần, Diệu, Năng"), chỉ những tác phẩm/tác giả đạt đến cảnh giới thần thánh, siêu việt.
- Tứ Tuyệt Bi (四绝碑): Tấm bia được coi là gồm bốn "tuyệt phẩm": Văn bia hay (của Lý Hoa), Nhân vật được ghi (Nguyên Đức Tú - bậc cao sĩ), Chữ Khải đẹp (Nhan Chân Khanh), Chữ Triện đẹp (Lý Dương Băng).
- Triện ngạch (篆额): Phần tiêu đề của một tấm bia, thường được viết bằng chữ Triện to, trang trọng ở đầu bia.
- Mô tả (模写): Tập viết, mô phỏng theo tác phẩm của bậc thầy, một phương pháp học thư pháp quan trọng.
- Sử Trứu (史籀): Tương truyền là tác giả của sách Sử Trứu Thiên (史籀篇), một văn bản Đại Triện (Trứu văn) thời Chu, sau này dùng để chỉ Đại Triện/Trứu văn nói chung.
- Pháp độ (法度): Quy tắc, quy phạm, phép tắc trong thư pháp. Thời Đường rất coi trọng việc tuân thủ pháp độ.
- Thiên túng kỳ năng (天纵其能): Ý trời phú cho tài năng phi thường.
- Trung hưng tư học (中兴斯学): Làm hưng thịnh trở lại môn học/nghệ thuật này (chỉ Triện thư/văn tự học).
- Hùng túc độc xuất (雄秀独出): Vừa hùng hồn, mạnh mẽ (雄 - hùng) vừa tinh túy, đẹp đẽ (秀 - túc), và độc đáo, vượt trội hẳn lên (独出 - độc xuất).
- Cổ thoa ỷ vật (古钗倚物): Hình ảnh ví von nét chữ Triện của Lý Dương Băng: cứng cáp, có lực như chiếc trâm cổ dựa vào vật gì đó, đồng thời cũng gợi vẻ đẹp cổ kính.
- Tú dật hữu thần (秀逸有神): Thanh tú (秀 - tú), phóng khoáng, ung dung (逸 - dật), và có thần thái, có hồn (有神 - hữu thần).
- Đại Lệnh (大令): Chỉ Vương Hiến Chi (王献之, 344-386), con trai Vương Hi Chi (王羲之), một trong những thư pháp gia vĩ đại nhất thời Đông Tấn, nổi tiếng với chữ Thảo và Hành thư.
- San định (刊定): Chỉ việc Lý Dương Băng chỉnh sửa, hiệu đính bộ Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận. Việc này gây tranh cãi lớn trong lịch sử ngữ văn học vì ông dựa trên hiểu biết và quan điểm riêng để sửa chữa văn bản cổ.
- Bút pháp (笔法): Phương pháp, kỹ thuật sử dụng bút lông trong thư pháp, bao gồm cách cầm bút, vận bút, điểm hoạch, kết cấu nét...
- Trung hưng (中兴): Chỉ sự phục hưng, chấn hưng lại nghệ thuật Triện thư (và văn tự học liên quan) mà Lý Dương Băng được cho là đã thực hiện.
- Ỷ thuyết (臆说): Lời nói theo ý riêng, suy đoán chủ quan, không dựa trên bằng chứng hoặc học thuật khách quan. Người chỉ trích cho rằng Lý Dương Băng sửa Thuyết Văn là dựa vào ỷ thuyết.
- Sư tâm độc kiến (师心独见): Kiến giải độc đáo xuất phát từ lòng mình, từ tư duy cá nhân, không theo lề lối cũ hay uy quyền tiền nhân. Đây vừa là điểm mạnh (sáng tạo) vừa là điểm bị công kích (tự ý phá bỏ truyền thống).
- Tổ thuật (祖述): Tôn sùng, noi theo, kế thừa những điều của tiền nhân, bậc tổ sư.
- Quý nhĩ nhi tiện mục (贵耳贱目): Coi trọng những gì nghe được (danh tiếng, lời đồn) mà coi thường những gì mắt thấy (thực chất, bằng chứng thực tế). Lời phê phán này nhắm vào những người chỉ nghe theo lý thuyết mới của Lý Dương Băng mà không xem xét giá trị thực tế hay so sánh với nguyên bản.
- Liễu Diệp (柳叶): Một phong cách viết nét trong Triện thư của Lý Dương Băng, đặc trưng bởi các nét mảnh, thon, nhọn ở hai đầu, giống hình lá liễu. Người chỉ trích (như Hà Lương Tuấn) cho rằng nó thiếu vẻ cổ kính (cổ ý - 古意) so với nét Ngọc Trợ (玉箸 - đũa ngọc) đầy đặn, tròn trịa thời Tần của Lý Tư.
- Cương Nhuận (劲润): Sự kết hợp hài hòa giữa sức mạnh, độ cứng cáp (cương - 劲) và sự nhuần nhuyễn, mềm mại (nhuận - 润) trong nét bút.
- Tam muội (三昧): Thuật ngữ Phật giáo (phiên âm từ Samādhi), chỉ trạng thái tập trung cao độ, đạt đến chỗ thâm sâu, tinh túy nhất. Ở đây ý nói Từ Thuyên đã nắm được tinh hoa, bản chất của Triện thư Lý Tư.
- Quân tử tàng khí (君子藏器): Quan niệm Nho gia cho rằng người quân tử nên giấu tài năng, đức độ, không nên khoe khoang, phô trương (Luận Ngữ: "Quân tử tàng khí ư thân, đãi thì nhi động" - 君子藏器於身,待時而動). Lời tự nhận "Sau Lý Tư đến kẻ hèn mọn này" của Lý Dương Băng bị xem là trái với tinh thần này.
- Ý thú (意趣): Tinh thần, thú vị, sự hứng thú và cá tính được thể hiện trong nét bút, vượt ra ngoài kỹ thuật thuần túy.
- Thượng khẩn hạ tùng (上紧下松): Đặc điểm kết cấu thường thấy trong chữ Triện: phần trên chữ viết chặt chẽ, gọn gàng, phần dưới buông lỏng, phóng khoáng hơn.
- Thương kính hữu lực (苍劲有力): Vẻ già dặn, cứng cáp và đầy sức mạnh trong nét bút.
- Viên nhuệ linh động (圆润灵动): Sự tròn trịa, nhuần nhuyễn và linh hoạt, uyển chuyển.
- Hản sướng lâm ly (酣畅淋漓): Diễn tả sự thỏa mãn, trọn vẹn, tự do phóng khoáng, không vướng bận.
- Tiếp nhận học (接受学): Lĩnh vực nghiên cứu quá trình tiếp nhận, diễn giải và ảnh hưởng của một tác giả, tác phẩm qua các thời kỳ lịch sử. Ở đây, nó giải thích vì sao đánh giá về Lý Dương Băng thay đổi theo thời đại.
- Thị giác kỳ vọng mỹ cảm (审美期待视野): Khái niệm trong Mỹ học tiếp nhận, chỉ hệ thống chuẩn mực, kỳ vọng và góc nhìn về cái đẹp mà người thưởng thức/công chúng một thời đại cụ thể sở hữu, được hình thành từ kinh nghiệm thẩm mỹ trước đó và bối cảnh văn hóa-xã hội đương thời. Nó quyết định cách họ tiếp nhận và đánh giá tác phẩm nghệ thuật.
- Phục cổ (复古): Trào lưu học tập, hướng về và phục hồi các giá trị, phong cách, khuôn mẫu nghệ thuật cổ điển (thường là thời Hán, Đường hoặc thậm chí xa hơn như Chu, Tần). Thời Minh-Thanh, đặc biệt dưới ảnh hưởng của Đổng Kỳ Xương, phục cổ là chủ đạo.
- Lâm cổ (临古) & Mô cổ (摹古): Hai phương pháp học thư pháp cơ bản. Lâm cổ là tập viết theo (nhìn mẫu và viết lại, có thể thêm bớt, hiểu ý). Mô cổ là mô phỏng, tô theo (thường rất sát, giống như in).
- Phong cách thư pháp lãng mạn cuối Minh (晚明浪漫主义书风): Đặc trưng bởi sự nhấn mạnh vào cá tính, tình cảm mãnh liệt, phóng khoáng, phá cách, thể hiện "cái tôi" của người nghệ sĩ, phản ứng lại sự gò bó và sự suy tàn chính trị. Đổng Kỳ Xương tuy đề xướng phục cổ nhưng trong sáng tạo vẫn thể hiện cá tính riêng, tạo nền cho phong cách này.
- Tư tưởng giải phóng cá tính (个性解放思潮): Làn sóng tư tưởng cuối Minh đề cao sự tự do, độc lập, phóng túng của cá nhân, giải phóng khỏi những ràng buộc của lễ giáo Nho gia truyền thống khắt khe, thể hiện rõ trong văn học, nghệ thuật (kịch, tiểu thuyết, thư họa).
- Sĩ đại phu (士大夫): Tầng lớp trí thức-nho sĩ đồng thời thường là quan lại trong xã hội phong kiến Trung Quốc, nắm giữ tri thức và đạo đức Nho giáo, có vai trò quan trọng trong văn hóa và chính trị.
- Báo quốc vô môn (报国无门): Tình cảnh bi thương của nhiều trí thức cuối Minh: lòng muốn báo đền Tổ quốc nhưng không có lối vào (do chính quyền hủ bại, loạn lạc, hoặc sau này là sự thay triều đổi đại), dẫn đến u uất, phẫn chí, thường tìm đến nghệ thuật để giãi bày.
- Kinh điển (经典): Ở đây chỉ những tác gia, tác phẩm, phong cách nghệ thuật đã được công nhận và tôn sùng trong lịch sử, như Lý Tư, Hứa Thận, hay chính Lý Dương Băng trong các thời kỳ trước đó.
- Làm phong phú thêm ý nghĩa (丰富意义): Quan điểm cho rằng những tranh luận, phê bình (kể cả tiêu cực) cũng góp phần vào quá trình tiếp nhận lịch sử, giúp hiểu sâu sắc và đa chiều hơn về giá trị và vị trí của một nhân vật/tác phẩm, chứ không chỉ đơn thuần là phủ nhận. Sự chỉ trích thời Minh-Thanh buộc người ta phải xem xét lại và định vị khác đi vai trò của Lý Dương Băng trong dòng chảy lịch sử thư pháp.
Tài liệu tham khảo :
- Cao Hiểu Sa , Nghiên cứu tiểu sử và nghệ thuật thư pháp Lý Dương Băng, Trung Quốc Học viện Mỹ thuật , 2010.
- Y Tuyết Phong , Trung hưng và chung kết: Sự biến đổi của Tiểu Triện thế kỷ 8 , Trung ương Học viện Mỹ thuật (Zhōngyāng Měishù Xuéyuàn), 2007.
- Lý Nghiễn , Nghiên cứu và tham khảo phong cách Triện thư Lý Dương Băng , Trung Quốc Học viện Mỹ thuật , 2012.
- Hùng Phi , Mấy vấn đề về tiểu sử Lý Dương Băng , Tạp chí Hàm Ninh Sư chuyên , Kỳ 2, 1991, tr. 111–117, 140.
- Đinh Kiệu , Lạc bút sái Triện văn băng vân sử nhân kinh - Bàn về nghệ thuật thư pháp Tiểu Triện Lý Dương Băng , Nghiên cứu Mỹ thuật Thị , Kỳ 2, 2012, tr. 19–20.
- Vệ Yến Hồng , Thử luận Từ Khải chỉ trích Lý Dương , Tư liệu Văn giáo , Kỳ 28, 2008, tr. 16–18.
- Từ Văn Bình , Trâu Kiến Lợi , Bia 'Tấn Vân Thành Hoàng Miếu' của Lý Dương Băng và nghệ thuật thư pháp của nó , Tạp chí Lệ Thủy Sư chuyên , Kỳ 4, 2004, tr. 44–45.
- Cảnh Mẫn Hà , Bàn sơ lược về nghệ thuật thư pháp Triện thư Lý Dương , Thư Pháp , Kỳ 9, 2012, tr. 100–102.
- Đào Mẫn , Hậu thân của Thương Hiệt - Lý Dương Băng , Tri thức Văn sử , Kỳ 10, 2001, tr. 114–116.
- Sử Văn Lỗi , Xem sự khác biệt và tương đồng trong việc Nhị Từ dẫn dụng quan điểm Lý Dương Băng trong 'Thuyết Văn' từ góc độ lịch sử học thuật , Tập san Hán ngữ sử , 2007, tr. 272–281.
- Lã Nhạc Quần , Di tồn đề ký trên bia khắc của Lý Dương Băng ở Tấn Vân , Đông Phương Bác vật , Kỳ 4, 2011, tr. 64–68.
- Sử Văn Lỗi , Kim Thạc , Thống kê phân tích việc Lý Dương Băng san định 'Thuyết Văn' , Tạp chí Nghi Tân học viện (Yíbīn Xuéyuàn Xuébào), 2006, tr. 93–100.
- Triệu Trị Trung , Lý Dương Băng ở Tấn Vân , Tạp chí Lệ Thủy Sư chuyên (Líshuǐ Shīfàn Zhuānkē Xuéxiào Xuébào), Kỳ 6, 1998, tr. 42–45, 62.
- Điền Canh Ngư , Lý Dương Băng được dẫn trong "Lục Thư Cố" - Luận tập về "Quảng Thuyết Văn Giải Tự" (《六书》所引李阳冰《广<说文解字>》辑论 , Tạp chí Nghiên cứu Chỉnh lý Cổ tịch (Gǔjí Zhěnglǐ Yánjiū Xuékān), Kỳ 6, 2011, tr. 1-4.
- Phòng Chỉnh lý Cổ tịch Học viện Sư phạm Hoa tuyển biên, Tuyển tập Luận văn Thư pháp qua các đời , Nhà xuất bản Mỹ thuật Thượng Hải , 1979, tr. 258. (Trích Thuật Thư Phú của Đậu Tích).
- Sđd, tr. 258. (Trích chú giải của Đậu Mông trong Thuật Thư Phú).
- Lý Bạch , Lý Thái Bạch Văn tập (李太白文集 ), Ấn bản in lại Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư [文渊阁四库全书 ], Nhà xuất bản Thương vụ Đài , 1986. (Bài Đương Đồ Lý Tể Quân Họa Tán).
- Thôi Nhĩ Bình hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp qua các đời - Tục biên , Nhà xuất bản Mỹ thuật Thượng Hải , 1993, tr. 31-35. (Trích Tục Thư Bình của Lã Tổng).
- Từ Khải , Tựa Thuyết Văn Giải Tự Triện Vận Phổ (说文解字篆韵谱序 ), Ấn bản in lại Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư [文渊阁四库全书 ], Nhà xuất bản Thương vụ Đài Loan (Táiwān Shāngwù Yìnshūguǎn), 1986.
- Lưu Hú , Cựu Đường Thư, quyển 190 hạ (旧唐书卷一百九十下 ), Ấn bản in lại Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư, NXB Thương vụ Đài Loan, 1986.
- Thôi Nhĩ Bình hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp qua các đời - Tục biên, NXB Mỹ thuật Thượng Hải, 1993, tr. 317-352. (Trích Tục Thư Đoạn của Chu Trường Văn).
- Hùng Bằng Lai , Kinh Thuyết, quyển 7, Tạp thuyết, Bình Triện (经说卷七,杂说,评篆 Jīngshuō juǎn qī, záshuō, píng zhuàn), Ấn bản in lại Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư, NXB Thương vụ Đài Loan, 1986.
- Thôi Nhĩ Bình hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp qua các đời - Tục biên, NXB Mỹ thuật Thượng Hải, 1993, tr. 401-477. (Trích Diễn Cực của Trịnh Bình).
- Thôi Nhĩ Bình hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp qua các đời - Tục biên, NXB Mỹ thuật Thượng Hải, 1993, tr. 97-123. (Trích Đồng Học Thư Trình của Phong Phường).
- Tống Liêm , Bồ Dương Nhân Vật Ký, quyển hạ (浦阳人物记卷下 ), Ấn bản in lại Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư, NXB Thương vụ Đài Loan, 1986.
- Thôi Nhĩ Bình hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp Minh Thanh , Nhà xuất bản Điếm sách Thượng Hải (Shànghǎi Shūdiàn Chūbǎnshè), 1994, tr. 827-832. (Trích tác phẩm của Hồ Nguyên Thường).
- Thôi Nhĩ Bình hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp Minh Thanh, NXB Điếm sách Thượng Hải, 1994, tr. 1017-1063. (Trích Thư Pháp Chân Thuyên của Trương Chi Bình).
- Tống Sử (宋史 ), Ấn bản in lại Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư [文渊阁四库全书 (Wényuāngé Sìkù Quánshū)], Nhà xuất bản Thương vụ Đài Loan (Táiwān Shāngwù Yìnshūguǎn), 1986. (Trích phần liên quan đến phê bình Lý Dương Băng).
- Thôi Nhĩ Bình (Cuī Ěrpíng) hiệu đính, Tuyển tập Luận văn Thư pháp Minh Thanh , Nhà xuất bản Điếm sách Thượng Hải (Shànghǎi Shūdiàn Chūbǎnshè), 1994, tr. 131-143. (Trích Tứ Hữu Trai Thư Luận của Hà Lương Tuấn).
- Sđd, tr. 261-361. (Trích Hàn Sơn Chử Đàm của Triệu Quang).
- Phòng Chỉnh lý Cổ tịch Học viện Sư phạm Hoa Đông tuyển biên, Tuyển tập Luận văn Thư pháp qua các đời , Nhà xuất bản Mỹ thuật Thượng Hải , 1979, tr. 615-628. (Trích Thư Học của Tiền Dũng).
kuangtuan biên tập