BIA MỘ NGUYÊN TRÀNH THỜI BẮC NGỤY: KIỆT TÁC THƯ PHÁP VÀ SỬ LIỆU QUÝ GIÁ

Ngày đăng: 11/09/2025 | 00:09

BIA MỘ NGUYÊN TRÀNH THỜI BẮC NGỤY: KIỆT TÁC THƯ PHÁP VÀ SỬ LIỆU QUÝ GIÁ

I. Giới Thiệu Chung về Bia Mộ

Bia mộ "Nguyên Trành" (元苌墓志), có tên đầy đủ là "Ngụy Cố Thị Trung Trấn Bắc Đại Tướng Quân Định Châu Thứ Sử Tùng Tư Thành Công Nguyên Quân Mộ Chí Minh" (魏故侍中镇北大将军定州刺史松滋成公元君墓志铭), là một phát hiện khảo cổ và thư pháp quan trọng. Phiến đá bia cao và rộng đều 79 cm, được khai quật vào năm 2002 tại thành phố Tế Nguyên, tỉnh Hà Nam. Văn bia gồm 26 dòng, mỗi dòng đủ 26 chữ, tổng cộng 664 chữ, được khắc bằng thư thể Khải thư (楷书) chín muồi.

Bia thuộc loại "thư khắc giai tinh" (书刻皆精 - chữ viết và khắc đá đều tinh xảo). Đường nét khắc (đao pháp - 刀法) tỉ mỉ, tinh tế. Do mới được khai quật và bảo quản nguyên vẹn, các nét chạm khắc sắc nét và rõ ràng như mới, tạo điều kiện lý tưởng cho việc lâm tập (临习 - tập viết theo) và nghiên cứu "thông qua đao pháp để quan sát bút pháp" (透过刀法看笔法), từ đó phục nguyên lại bút pháp khi viết trên giấy.

II. Nội dung Văn Bia & Giá Trị Lịch Sử

Chủ nhân ngôi mộ là Nguyên Trành (元苌), một nhân vật quan trọng trong hoàng tộc Bắc Ngụy. Theo văn bia, ông mất vào năm Diên Xương thứ 4 (515) thời Bắc Ngụy Hiếu Minh Đế, hưởng thọ 58 tuổi, do đó suy ra ông sinh năm Thái An thứ 4 (458) thời Văn Thành Đế. Cuộc đời ông "lịch phụng ngũ đế" (历奉五帝 - trải phụng sự năm đời vua: Văn Thành, Hiến Văn, Hiếu Văn, Tuyên Vũ và Hiếu Minh Đế), trải dài qua hai giai đoạn trọng đại: kinh đô tại Bình Thành và Lạc Dương, chứng kiến và tham gia vào các cuộc cải cách Hán hóa sâu rộng của Hiếu Văn Đế.

So với bản truyện sơ lược chỉ khoảng "hai ba trăm chữ" trong "Ngụy thư" (quyển 14), văn bia cung cấp một tư liệu vô cùng chi tiết về lý lịch, chức vụ và công trạng của Nguyên Trành, có thể bổ khuyết cho chính sử. Văn bia mô tả ông là người "nội nhậm phúc tâm, ngoại phiên duy hãn" (内任腹心,外蕃维扞 - trong thì giữ chức cốt cán tin cẩn, ngoài thì trấn giữ biên thùy), cụ thể qua các sự kiện:

  • Trấn thủ Đại Đô (Bình Thành): Năm Thái Hòa thứ 17 (493), khi Hiếu Văn Đế thiên đô về Lạc Dương, Nguyên Trành được lưu lại để "lưu công hậu sự, trấn vệ Đại Đô" (留公后事,镇卫代都 - ở lại giải quyết việc hậu cần, trấn thủ và bảo vệ Đại Đô/Bình Thành), được giao chức Trì tiết Bình Bắc tướng quân.
  • Tham gia chiến sự: Năm Thái Hòa thứ 16 (492), "Nhu Nhiên phạm tái" (蠕蠕犯塞 - Nhu Nhiên xâm phạm biên ải), ông giữ chức Biệt tướng đạo Tây trong chiến dịch Bắc chinh. Năm Thái Hòa thứ 21 (497), theo Hiếu Văn Đế "Nam thảo Giang Dương" (南讨江扬 - đánh xuống phía nam vùng Giang Dương), chỉ huy tiền quân, và là Đô tướng của hai đạo quân "Bắc thảo Cao Xa, Đông chinh Hề cô" (北讨高车,东征奚寇 - Bắc đánh Cao Xa, Đông đánh giặc Hề/Khu Mật Hề).
  • Xây dựng kinh đô: Năm Cảnh Minh nguyên niên (500), ông giữ chức "Doanh cấu Thái Cực đô tướng" (营构太极都将 - Đô tướng phụ trách xây dựng Thái Cực điện) tại Lạc Dương.

Bia cũng ghi chép nhiều chức quan và chế độ quan chức hiếm thấy trong các tư liệu sử sách khác, cung cấp tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu lịch sử Bắc Ngụy. Các vấn đề như miếu hiệu tổ tiên, truyền thừa tước vị, đặc điểm khởi nghiệp, loại hình quan chức và cấp bậc truy tặng được đề cập trong bia cũng đáng được nghiên cứu sâu hơn. Cuộc đời Nguyên Trành là một bản thu nhỏ của lịch sử biến đổi từ Bình Thành sang Lạc Dương và là bức chân thực về chính sách tông thất của vương triều Bắc Ngụy.

III. Toàn văn mộ chí

魏故侍中、鎮北大將軍、定州刺史、松滋成公元君墓志銘。使持節、散騎常侍、都督雍州關西諸軍事、安西將軍、雍州刺史、松滋公,姓元,諱萇,字於巔,河南洛陽宣平鄉永智里人也。太祖平文皇帝六世孫,高涼王之玄孫,使持節、散騎常侍、征南將軍、肆州刺史、襄陽公之孫,使持節、羽真、輔國將軍、幽州刺史、松滋公之世子也。皇興二年,召補大姓內三郎。自襲爵松滋公,歷鎮遠將軍。

太和十二年,代都平城改俟勤曹,創立司州,拜建威將軍、畿內高柳太守。俄遷輔國將軍、北京代尹。十六年,蠕蠕犯塞,以本官假節、征虜將軍、北征西道別將。十七年,皇宇徙構,遷洛之始,留公後事,鎮衛代都,授持節、平北將軍,攝揔燕方。

仍持節、本將軍、懷朔鎮都大將。廿一年,高祖孝文皇帝南討江楊,從駕前驅,董帥前軍。北討高車、東征奚寇二道都將。景明元年,營構太極都將,持節、鎮遠將軍、撫窴鎮都大將,持節、輔國將軍、都督南征梁城壽春之鐘離。太中大夫、兼太常卿、散騎常侍、使持節,撫慰北葙三州七鎮新附蠕蠕,銜命北巡大使。使持節、都督恆州諸軍事、征虜將軍、恆州刺史,北中郎將、帶河內太守。永平中,河南尹、河南邑中正、侍中、度支尚書、詮量鮮卑姓族四大中正。使持節、散騎常侍、都督關西諸軍事、安西將軍、雍州刺史。公曆奉五帝,內任腹心,外蕃維扞,如何遘疾,台華夙掩,延昌四年歲在乙未秋七月壬寅朔十有一日壬子薨於位,春秋五十有八。冊贈使持節、侍中、鎮北大將軍、定州刺史。朝議安民立政,謚曰成公。熙平二年歲次丁酉二月壬辰朔廿九日庚申,窆於河內軹縣嶺山之白楊鄔。

志曰:天監魏錄,神固帝族。載挺雄英,式照金玉。逸性霞褰,烈氣霜燭。孝睦絕倫,忠貞冠俗。自家形國,秉律維城。三翊皇甸,再尹神京。外絹端揆,內燮摳(樞)局。功匡地義,智濟天經。政委良牧,治在振民。作鎮關輔,垂化舊秦。清明照日,威猛凝神。德音唯永,暉光載新。善績方融,甘泉且竭。亭夏摧梁,先秋落月。存名既易,追寵已發。金石可志,聲明不歇。

Tạm Dịch :

Văn Bia Mộ Ngài họ Nguyên, Tước Tùng Tư Thành  Công , từng giữ chức Thị Trung, Trấn Bắc Đại tướng quân, Thứ sử Định Châu thời Ngụy xưa.

Ngài họ Nguyên, tên húy là Trành, tự là Ư Điên, người thôn Vĩnh Trí, huyện Tuyên Bình, Lạc Dương, Hà Nam.

Là cháu sáu đời của Thái Tổ Bình Văn Hoàng đế, chắt của Cao Lương Vương, cháu nội của ngài giữ chức Trì tiết, Tán kỵ Thường thị, Chinh Nam tướng quân, Thứ sử Tứ Châu, tước Tương Dương Công, con trưởng (Thế tử) của ngài giữ chức Trì tiết, Vũ Chân, Phụ Quốc tướng quân, Thứ sử U Châu, tước Tùng Tư Công.

Năm Hoàng Hưng thứ 2 (468), được vua triệu bổ làm Đại tính Nội tam lang.

Từ khi kế thừa tước Tùng Tư Công, đã giữ chức Trấn Viễn tướng quân.

Năm Thái Hòa thứ 12 (488), tại Đô thành Đại Đại (Bình Thành) cải cách cần tào (cơ quan) , sáng lập Tư Châu, được bái làm Kiến Uy tướng quân, Thái thú Cao Liễu thuộc Kinh đô . Chẳng bao lâu sau thăng chức Phụ Quốc tướng quân, Đại doãn Bắc Kinh (tức Bình Thành).

Năm Thái Hòa thứ 16 (492), Nhu Nhu (tên gọi riêng dân tộc Nhu Nhiên)  xâm phạm biên ải, lấy bản chức Giả tiết, Chinh Lỗ tướng quân, Biệt tướng đạo Tây trong chiến dịch Bắc chinh.

Năm Thái Hòa thứ 17 (493), Hoàng gia dời đô, vào lúc bắt đầu thiên đô về Lạc Dương, lưu lại Ngài lo việc hậu sự, trấn vệ Đại Đô, được thụ chức Trì tiết Bình Bắc tướng quân, Nhiếp Tổng (quản lý tổng quát) vùng Yên.

Vẫn giữ chức Trì tiết, Bản tướng quân (Bình Bắc tướng quân), Đô đại tướng trấn Hoài Sóc.

Năm Thái Hòa thứ 21 (497), Cao Tổ Hiếu Văn Hoàng đế nam thảo (đánh xuống phía nam) Giang Dương (vùng sông Trường Giang), Ngài theo giá tiền khu (theo xa giá đi tiên phong), Đổng súy (chỉ huy) tiền quân. Là Đô tướng của hai đạo quân: Bắc thảo Cao Xa và Đông chinh giặc Hề.

Năm Cảnh Minh nguyên niên (500), giữ chức Đô tướng phụ trách doanh tạo (xây dựng) Thái Cực điện, Trì tiết Trấn Viễn tướng quân, Đô đại tướng trấn Phủ Minh.

Trì tiết, Phụ Quốc tướng quân, Đô đốc nam chinh (chỉ huy đánh nam) các thành Lương Thành, Thọ Xuân, Chung Ly.

Thái Trung đại phu, kiêm Thái Thường khanh, Tán kỵ Thường thị, Sứ trì tiết, phủ úy (vỗ về) Bắc Tương (vùng biên cương phía bắc), đại sứ tuần thị phương bắc, phủ úy ba châu bảy trấn mới quy phụ và Nhu Nhiên.

Sứ trì tiết, Đô đốc chư quân sự Hằng Châu, Chinh Lỗ tướng quân, Thứ sử Hằng Châu.

Bắc Trung lang tướng, kiêm (đái) Thái thú Hà Nội.

Giữa những năm Vĩnh Bình (508-512), giữ chức Hà Nam Doãn, Hà Nam Ấp Trung chính, Thị trung, Độ chi Thượng thư, chức Tứ đại Trung chính chuyên luận định (thẩm định) tính tộc (họ) của người Tiên Ti.

Sứ trì tiết, Tán kỵ Thường thị, Đô đốc chư quân sự Quan Tây, An Tây tướng quân, Thứ sử Ung Châu.

Ngài trải phụng sự năm đời vua, trong thì giữ chức cốt cán tin cẩn (phúc tâm), ngoài thì trấn giữ biên thùy (ngoại phiên duy hãn).

Than ôi, vì sao mắc bệnh, sớm từ giã cõi đời (thai hoa túc yểm)!

Năm Diên Xương thứ 4, năm Ất Mùi (515), tháng 7 mùa thu, ngày Nhâm Dần mồng 1, ngày 11 (Nhâm Tý) thì mất tại nhiệm sở, thọ 58 tuổi (xuân thu).

Ban sách truy tặng: Sứ trì tiết, Thị trung, Trấn Bắc Đại tướng quân, Thứ sử Định Châu.

Triều nghị (bàn luận trong triều) cho rằng Ngài đã an dân lập chính, nên đặt thụy là Thành Công.

Năm Hi Bình thứ 2, năm Đinh Dậu (517), tháng 2, ngày Nhâm Thìn mồng 1, ngày 29 (Canh Thân), an táng (biếm) tại ấp Bạch Dương, núi Lĩnh, huyện Chỉ, Hà Nội.

Bài Minh rằng (Lời ca tụng kết):

Trời giám sát sổ sách nước Ngụy ,

Thần linh củng cố dòng dõi đế vương .

Sinh ra bậc anh hùng hùng tài ,

Sáng ngời như vàng ngọc .

Tính cách siêu phàm như mây cuốn ,

Khí tiết mãnh liệt như sương sáng .

Hiếu thuận, hòa mục siêu phàm ,

Trung thành, trinh tiết đứng đầu thiên hạ .

Từ sửa mình nhà đến trị nước ,

Nắm giữ quân luật giữ gìn thành trì .

Ba lần phò tá vùng đất hoàng gia ,

Hai lần làm Doãn trị lí kinh đô thần thánh .

Ngoài thì nắm giữ chức vụ trọng yếu ,

Trong thì hòa hợp việc cơ mật .

Công lao sửa sang việc nghĩa đất ,

Trí tuệ giúp rập đạo trời .

Việc chính trị giao cho người mục tử tốt ,

Việc cai trị ở chỗ chấn hưng dân chúng .

Làm trấn thủ vùng Quan Phụ ,

Ban rộng giáo hóa vùng đất Tần xưa .

Thanh minh (trong sáng) soi rọi như mặt trời ,

Uy mãnh (uy nghi dũng mãnh) khiến thần khí ngưng tụ .

Tiếng tăm đức hạnh mãi còn vang vọng ,

Ánh sáng rạng ngời  càng thêm mới mẻ .

Thành tích tốt đẹp  đang rực rỡ ,

Thì suối ngọt  đã sắp cạn .

Giữa mùa hè cây đại thụ  gãy đổ ,

Trước mùa thu vầng trăng (chỉ Ngài) lặn mất .

Lưu danh  đã là điều dễ dàng ,

Nhưng sự sủng ái (vinh dự) truy tặng (truy phong) đã ban ra .

Bia đá  có thể ghi chép ,

Nhưng tiếng thơm  và sự sáng tỏ  sẽ không bao giờ dứt .

IV. Đặc Điểm & Giá Trị Nghệ Thuật Thư Pháp

Về mặt nghệ thuật thư pháp, bia mộ Nguyên Trành là một điển hình xuất sắc của Ngụy bi (魏碑) - tên gọi chung cho thư pháp khắc đá thời Bắc triều (420-588), với đỉnh cao là thời Bắc Ngụy.

  • Phong cách: Văn bia được mô tả có phong cách "cường kiện, đẹp đẽ, đoan trang, đầy đặn" (遒丽华滋,端庄丰腴); "vận cao luật nghiêm, hình đoan thần dịch, lạc lạc đại phương" (韵高律严,形端神奕,落落大方 - vần luật cao nhã nghiêm cẩn, hình thể đứng đắn thần thái tươi sáng, hào phóng khoáng đạt), toát lên "khí chất trang nghiêm của triều đình" (庙堂之气 - miếu đường chi khí). Phong cách này thống nhất với "Mang Sơn thể" (邙山体) phổ biến trên các bia mộ ở khu vực Mang Sơn, Lạc Dương - nơi an táng của hoàng tộc Bắc Ngụy.
  • Bút pháp: "Dụng bút phương viên kiêm bị" (用笔方圆兼备 - kết hợp cả phương [góc cạnh] và viên [tròn trịa]), "tuyến hình minh lãng" (线形明朗 - đường nét rõ ràng), "khởi thu hữu độ, chuyển chiết kiêm dụng" (起收有度,转折兼用 - khởi bút và thu bút có phép tắc, chuyển bút và chiết bút [gấp khúc] đều được sử dụng).
  • Kết cấu: "Kết thể mật mật nghiêm cẩn" (结体茂密严谨 - kết cấu chặt chẽ, dày đặc), "nhân tự thành hình, trọng tâm trầm ổn, dĩ hoành thủ thế" (因字成形,重心沉稳,以横取势 - tùy theo chữ mà tạo hình, trọng tâm vững chãi, lấy thế ngang), mang đặc điểm "tà họa cấu kết" (斜画紧结 - các nét ngang thường có độ dốc và kết cấu chặt ở trung tâm) của Khải thư Bắc Ngụy.

Bia được đánh giá là "thượng phẩm" trong Ngụy bi, có giá trị nghệ thuật cao, tiêu biểu cho xu hướng "thượng nhã trọng pháp" (尚雅重法 - coi trọng sự thanh nhã và phép tắc) của thư phong chủ lưu đương thời. Thư pháp của nó thể hiện xu thế chuyển tiếp từ thư phong "phương kình nghiêm chỉnh, hùng kiện mật thiết" (方劲严整、雄健紧密 - mạnh mẽ góc cạnh nghiêm chỉnh, hùng kiện chặt chẽ) sang "tú kình khai lãng, khoan bác thư triển" (秀劲开朗、宽博舒展 - thanh tú mạnh mẽ rộng mở, khoan khoái duỗi thẳng), và trong một chừng mực nào đó, đã "mở đường cho phép tắc nghiêm ngặt của Khải thư đời Tùy Đường" (开启了法度森严的隋唐楷书之先河).

V. Vị Trí và Ảnh Hưởng của Ngụy Bi trong Lịch Sử Thư Pháp

Ngụy bi là một trong ba phong cách Khải thư chính, cùng với Khải thư nhà Tấn và Khải thư nhà Đường, đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng trong quá trình phát triển từ Lệ thư sang Khải thư điển hình.

  • Bối cảnh ra đời: Thời kỳ Nam Bắc triều xã hội hỗn loạn, Phật giáo hưng thịnh dẫn đến nhu cầu "tạo tượng khắc thạch" (造像刻石 - tạo tượng, khắc đá) rất lớn, tạo môi trường cho Ngụy bi phát triển. Sau khi nhà Tấn thiên đô về phía nam, thư pháp Bắc triều (vô danh) và Nam triều (sĩ đại phu) phát triển theo hai hướng khác biệt: "Bắc thư cương cường, Nam thư uyển chuyển" (北书刚强,南书蕴藉 - Chữ Bắc triều mạnh mẽ, chữ Nam triều uyển chuyển hàm súc), "mỗi bên đều đạt đến chỗ tuyệt diệu" (各臻其妙).
  • So sánh: So với Khải thư Nam triều "sơ phóng nghiên diệu" (疏放妍妙 - phóng khoáng đẹp đẽ tinh tế) và "ôn nhã" (温雅), Ngụy bi mang tính "hùng kiện" (雄健), "chất phác phương nghiêm" (质朴方严). So với Khải thư nhà Đường chú trọng "pháp độ" (法度 - phép tắc) và sự quy phạm thống nhất, Ngụy bi "dụng bút nhậm ý huy sái" (用笔任意挥洒 - dùng bút phóng khoáng), "kết thể nhân thế phú hình" (结体因势赋形 - kết cấu tùy theo thế chữ), "bất thụ câu thúc" (不受拘束 - không bị trói buộc).
  • Ảnh hưởng: Các danh gia Khải thư đầu Đường như Âu Dương Tuân (欧阳询), Ngu Thế Nam (虞世南), Chử Toại Lương (褚遂良) đều chịu ảnh hưởng từ Ngụy bi. Học giả Khang Hữu Vi (康有为) thời Thanh trong "Quảng nghệ chu song tiếp" (广艺舟双楫) đã ca ngợi Ngụy bi có "Thập mỹ" (十美 - 10 vẻ đẹp: phách lực hùng cường, khí tượng hồn mục, bút pháp khiêu việt, điểm họa tuấn hậu, ý thái kỳ dật, tinh thần phi động, hứng thú hâm túc, cốt pháp đỗng đạt, kết cấu thiên thành, huyết nhục phong mỹ- Một là sức mạnh hùng dũng, Hai là khí tượng đầy đặn trang nghiêm, Ba là bút pháp nhảy vọt, Bốn là nét bút sắc sảo dày dặn, Năm là ý thái kỳ lạ siêu thoát, Sáu là tinh thần bay bổng, Bảy là hứng thú say đủ, Tám là cốt cách thông suốt, Chín là kết cấu tự nhiên, Mười là huyết thịt đầy đặn xinh đẹp). Chung Trí Súy (钟致帅) trong "Tuyết hiên thư phẩm" (雪轩书品) nhận định: "Ngụy bi thư pháp, thừa Hán lệ chi dư vận, khải Đường khải chi tiên thanh" (魏碑书法,承汉隶之余韵,启唐楷之先声 - Thư pháp Ngụy bi kế thừa dư vận Lệ thư Hán, mở đường cho Khải thư Đường).

Trào lưu "Tôn bi ức thiếp" (尊碑抑帖 - tôn sùng bia đá, coi nhẹ thư thiếp) thời Thanh đã giúp Ngụy bi được nghiên cứu và đánh giá lại, thoát khỏi sự trói buộc của "Quán các thể" (馆阁体 - lối chữ cung đình cứng nhắc), từ đó ảnh hưởng lớn đến các nhà thư pháp cận-hiện đại. Nhiều nhà thư pháp như Vu Hữu Nhậm (于右任) (hành khải thư dung hợp ý vị Ngụy bi), Tiêu Hàm (萧娴) (học trò Khang Hữu Vi), Lý Chí Mẫn (李志敏) (chủ trương "dẫn bi nhập thảo" - 引碑入草 - đưa bút ý Ngụy bi vào thảo thư), Vũ Trung Kỳ (武中奇), Úy Thiên Trì (慰天池)... đều thành công trong việc "thủ Ngụy bi chi thần" (取魏碑之神 - lấy được cái thần của Ngụy bi) để sáng tạo phong cách riêng, đạt đến cảnh giới "nhập môn nhi thủ hình, xuất môn nhi thủ thần" (入门而取形,出门而取神 - vào cửa thì lấy hình, ra cửa thì lấy thần).

VI. Kết Luận

Bia mộ Nguyên Trành là một di sản văn hóa kép, vừa là một sử liệu khảo cổ quý giá, bổ sung sinh động và chi tiết cho chính sử, vừa là một kiệt tác nghệ thuật thư pháp tiêu biểu cho phong cách Ngụy bi thời kỳ chín muồi. Việc nghiên cứu toàn diện về bia mộ này không chỉ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn về lịch sử, chính trị và chế độ quan chức của triều đại Bắc Ngụy, mà còn mở ra cánh cửa để chiêm ngưỡng và học hỏi từ một trong những giai đoạn sáng tạo và có ảnh hưởng nhất trong lịch sử thư pháp Trung Hoa.

KUANGTUAN

 

 

 

 

 

 

 

  • Zalo
  • Messenger
  • Back to top