Mở Đầu: Biểu Tượng Tiết Hạnh Của Đất Việt
Phan Thị Thuấn (潘氏舜, 1766–1786), tự Nữ Anh (女英), là một trong những nữ nhân tiêu biểu cho tinh thần “trung trinh tiết liệt” của phụ nữ Việt Nam thời phong kiến. Cuộc đời bà gắn liền với giai đoạn lịch sử đầy biến động cuối thời Lê – Trịnh, khi anh em Tây Sơn tiến ra Bắc Hà. Tấm gương hy sinh theo chồng của bà được triều Nguyễn tôn vinh qua văn bia “Lê triều tiết liệt phu nhân Phan thị chi từ” (嗣德十二年奉旨立碑), trở thành di sản văn hóa – lịch sử quý giá. Bài viết phân tích sâu bài văn bia, các bài thơ vịnh, cùng bối cảnh lịch sử liên quan.
I. Nguyên Văn, Phiên Âm Và Dịch Nghĩa Bài Minh Bia
1. Nguyên văn chữ Hán:
嗣德三十一年正月吉日,御制詩一首:
丈夫死事亦何悲。弱質雄心未易窺。江上從容親哭奠。潔身已定濯漣漪。
夫人(姓潘諱舜),爪牙、牙奇人,黎朝管前擇隊親軍、湫嶺侯吳將軍(諱桓)次室。西山犯昇龍,將軍與兩郎提兵拒戰于翠靄江,陣沒,追贈南軍都督府都督。同知將軍沒,家人發喪。夫人獨不哀戚,亦不易服,言笑自若,紅紫如常。人皆訾之,答曰:「死於國事,死得其所矣。九泉之下當亦含笑,尚何悲乎?」月餘,至江次,設壇,具禮泣拜。訖,顧謂親屬曰:「夫君爲臣之道盡矣,妾於婦道謂何?」從容赴水,時年二十歲也。所在民立祠祀之,人咸悲悼之哉。嘉獎之題詠不可勝錄。翼尊英皇帝列入烈女傳,詠詩如右。啓定九年加封上等神。
保大元年十一月吉日,集福村奉鎸。
2. Phiên âm Hán Việt:
Tự Đức tam thập nhất niên chính nguyệt cát nhật, ngự chế thi nhất thủ:
Trượng phu tử sự diệc hà bi!
Nhược chất hùng tâm vị dị khuy.
Giang thượng thung dung thân khốc điện,
Khiết thân dĩ định trạc liên y.
*Phu nhân (tính Phan húy Thuấn), Trảo Nha, Nha Kỳ nhân, Lê triều Quản Tiền Trạch Đội thân quân, Thu Lĩnh Hầu Ngô tướng quân (húy Hoàn) thứ thất. Tây Sơn phạm Thăng Long, tướng quân dữ lưỡng lang đề binh cự chiến ư Thúy Ái giang, trận một, truy tặng Nam quân Đô đốc phủ Đô đốc. Đồng tri tướng quân một, gia nhân phát tang. Phu nhân độc bất ai thích, diệc bất dịch phục, ngôn tiếu tự nhược, hồng tử như thường. Nhân giai tỷ chi, đáp viết: “Tử ư quốc sự, tử đắc kỳ sở hĩ. Cửu tuyền chi hạ đương diệc hàm tiếu, thượng hà bi hồ?” Nguyệt dư, chí giang thứ, thiết đàn, cụ lễ khấp bái. Hất, cố vị thân thuộc viết: “Phu quân vi thần chi đạo tận hĩ, thiếp ư phụ đạo vị hà?” Thung dung phó thủy, thời niên nhị thập tuế dã. Sở tại dân lập từ tự chi, nhân hàm bi điếu chi tai. Gia tưởng chi đề vịnh bất khả thắng lục. Dực Tôn Anh Hoàng đế liệt nhập Liệt nữ truyện, vịnh thi như hữu. Khải Định cửu niên gia phong Thượng đẳng thần.
Bảo Đại nguyên niên thập nhất nguyệt cát nhật, Tập Phúc thôn phụng tuyên.
3. Dịch nghĩa:
Ngày lành tháng Giêng năm Tự Đức thứ 31 (1878), Hoàng đế ngự chế một bài thơ:
“Trượng phu chết việc nghĩa có gì đau? / Chất yếu đuối mà lòng hùng khó ai hay. / Trên sông thong thả tự tay khóc tế / Thân trong sạch đã gửi nơi sóng nước.”
Phu nhân (họ Phan tên húy Thuấn), người Trảo Nha, Nha Kỳ, là vợ thứ của Ngô tướng quân (tên húy Hoàn) – tước Thu Lĩnh Hầu, thuộc Tiền Trạch Đội thân quân triều Lê. Khi Tây Sơn đánh Thăng Long, tướng quân cùng hai con trai dẫn quân chống trận tại sông Thúy Ái, tử trận, được truy tặng chức Đô đốc Nam quân. Khi tin dữ đến, gia đình làm lễ tang, riêng phu nhân không đau buồn, không thay tang phục, vẫn nói cười, mặc áo đỏ tía như thường. Mọi người chê trách, bà đáp: “Chết vì nước là chết đáng. Dưới suối vàng cũng cười, cần gì sầu?” Hơn một tháng sau, bà đến bờ sông, lập đàn tế, khóc lạy xong, quay bảo người nhà: “Chồng ta trọn đạo tôi trung, ta há không vẹn đạo vợ?” Rồi thản nhiên gieo mình xuống nước, hưởng dương 20 tuổi. Dân lập đền thờ, người người thương tiếc. Thơ vịnh khen ngợi nhiều không kể xiết. Đời vua Tự Đức, bà được đưa vào Liệt nữ truyện. Năm Khải Định thứ 9 (1924), gia phong Thượng đẳng thần.
Ngày lành tháng 11 năm Bảo Đại thứ nhất (1926), làng Tập Phúc phụng khắc.
II. Phân Tích Bài Minh Bia
1. Bố Cục Và Nội Dung Chính:
2. Tư Tưởng Nho Giáo Trong Văn Bia:
“夫君爲臣之道盡矣,妾於婦道謂何?”
(Phu quân vi thần chi đạo tận hĩ, thiếp ư phụ đạo vị hà?)
III. Các Bài Thơ Vịnh Liệt Nữ Phan Thị Thuấn
1. Bài Thơ Trên Bia (Tự Đức Ngự Chế):
Nguyên văn:
丈夫死事亦何悲。
弱質雄心未易窺。
江上從容親哭奠。
潔身已定濯漣漪。
Phiên âm:
Trượng phu tử sự diệc hà bi!
Nhược chất hùng tâm vị dị khuy.
Giang thượng thung dung thân khốc điện,
Khiết thân dĩ định trạc liên y.
Dịch thơ:
Trượng phu chết nghĩa sá chi sầu,
Thân yếu lòng hùng mấy kẻ thấu?
Bến nước thản nhiên tay tế lễ,
Thân trong gửi sóng nước muôn đời.
Phân tích:
2. Bài Thơ Đăng Trên Nam Phong Tạp Chí (1919):
Nguyên văn:
Khảng-khái tòng vương dị,
慷 慨 從 王 易
Thung-dung tựu nghĩa nan.
從 容 就 義 難
Phận bọt bèo xiết nỗi khách hồng-nhan,
Lòng vàng đá mấy thua ông Tiền-Trạch.
Trung sở sự, chàng đành kiệt lực,
Nhất nhi chung, nàng vẹn chữ tòng.
Lấy áo xiêm mà trả nợ non sông,
Đem lòng trắng giãi cùng bích-thủy.
Nhị-giang phong trích cương thường lệ,
珥 江 鋒 鏑 綱 常 淚
Thúy-ái ba đào tiết nghĩa thân.
翠 靄 波 濤 節 義 身
Người liệt-nữ, kẻ trung-thần,
Gương trước để soi chung lai-thế.
Nào là kẻ trung-thần nghĩa-sĩ,
Để cương-thường một đấng phụ-nhân.
Đùn-đùn khói tỏa giang-tân.
Phân tích:
3. Bài Thơ Vịnh Khuyết Danh:
Nguyên văn:
Gái sao sánh với anh hùng,
Vì đem vàng đá liều cùng nước non.
Có người Thuý Ái họ Phan,
Mai còn thua trắng, liễu còn kém xanh.
Khâm chù phận gái mong manh,
Với cùng Ngô Cảnh bén tình lửa hương.
Bỗng đâu vừa gập chiến trường,
Thua cơ chàng đã quyết đường quyên sinh.
Tin về ai nấy đều kinh,
Mà nàng Phan Thị một mình cười vui.
Niên hoa vừa trạc hai mươi,
Những mong phấn sáp tốt tươi áo quần.
Kẻ chê người trách mấy lần,
Cũng không kể lể ân cần điều chi.
Trăm ngày hầu đã đến kỳ,
Sắm sanh một lễ trai nghi sẵn sàng.
Rước thầy siêu độ cho chàng,
Đủ tuần lễ mới sửa sang việc mình.
Xuống thuyền quần áo tốt xinh,
Gọi bà kể hết sự tình đầu đuôi.
Việc tôi nay đã lọn rồi,
Thì tôi xin thác với người cho xong.
Nói rồi thuyền mới xuôi dòng,
Đến nơi chàng chết xuống sông theo chàng.
Thôi đà nát ngọc chìm hương,
Ai ai trông thấy lòng càng thêm thương.
Người sao tiết nghĩa lạ nhường?
Nhẹ mình nặng gánh cương thường hai vai.
Ba trăm năm kể mấy đời,
Đài gương một mảnh mấy trai soi cùng
Bài thơ này đăng trên Nam Phong tạp chí số 21 (3-1919), do Mân Châu sao lục, không đề tác giả.
Phân tích:
IV. Di Sản Và Ý Nghĩa Lịch Sử
Cuộc đời và hành động tuẫn tiết của Liệt nữ Phan Thị Thuấn không chỉ là câu chuyện cảm động về đạo nghĩa phu thê, mà còn trở thành biểu tượng văn hóa – lịch sử, phản ánh tinh thần “trung quân, ái quốc” và lý tưởng Nho giáo trong xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII–XIX. Di sản của bà được lưu truyền qua nhiều hình thức: từ văn bia, đền thờ, đến thơ ca, tạo nên một mạch nguồn giá trị bền vững.
Đền Trung Liệt (忠烈祠):
Theo sắc chỉ triều Nguyễn, hai ngôi đền thờ Phan Thị Thuấn và chồng bà – Ngô Cảnh Hoàn – được xây dựng tại:
Thôn Thúy Lĩnh, xã Lĩnh Nam, huyện Thanh Trì (nay là phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai, Hà Nội).
Làng Tập Phúc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh – quê hương bà.
Cả hai đền đều mang tên “Trung Liệt” (忠烈), thể hiện sự tôn vinh trọn vẹn đạo “trung thần, tiết phụ”. Năm 1859, vua Tự Đức ban biển vàng “Trung liệt nhất gia” (忠烈一家), khẳng định gia đình bà là “một nhà trung liệt”, kết tinh đạo đức Nho gia.
Kết Luận
Hành động tuẫn tiết của Phan Thị Thuấn diễn ra trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Lê – Trịnh (1786) và sự trỗi dậy của Tây Sơn. Cái chết của bà không đơn thuần là sự hy sinh vì chồng, mà còn mang tính biểu tượng cho sự sụp đổ của hệ giá trị phong kiến. Triều Nguyễn, sau khi lên ngôi, đã tận dụng câu chuyện của bà để:
Củng cố tính chính thống: Tuyên truyền tinh thần “trung quân” nhằm phê phán Tây Sơn – những kẻ “soán ngụy”.
Khôi phục trật tự Nho giáo: Thông qua việc liệt bà vào Liệt nữ truyện, triều đình muốn thiết lập lại kỷ cương xã hội sau thời kỳ loạn lạc.
Ngày nay, di sản của Phan Thị Thuấn vẫn được bảo tồn tại Hà Nội và Hà Tĩnh. Lễ hội đền Trung Liệt (tổ chức vào ngày giỗ bà, 15 tháng 3 âm lịch) không chỉ tưởng nhớ một liệt nữ, mà còn là dịp ôn lại bài học về “chính khí” (正氣) – tinh thần kiên trung, bất khuất của dân tộc. Trong bối cảnh hiện đại, hình tượng bà trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, nhắc nhở thế hệ sau về sức mạnh của lý tưởng và lẽ sống cao đẹp.
Tư liệu tham khảo: